Đọc bài của các bác trí thức thế hệ trước có một cái lợi là họ biết/hiểu những thuật sử dụng trước năm 1975 mà giới trí thức sau này không được học. Lấy ví dụ nhờ bác Tô Văn Trường mà tôi mới biết chữ "ngân" trong "ngân hàng", "ngân quĩ" có nghĩa là "bạc" chứ không phải là "tiền", và tại sao tờ đô la Mỹ lại được gọi là "Mỹ kim" chứ không phải "Mỹ ngân".
Một ví dụ khác là đọc bài của bác Hùng Tâm trên Người Việt mới biết giới kinh tế trước năm 1975 dịch chữ commodity thành "thương phẩm". Cách dịch này hay hơn nhiều cách dịch hiện tại là "hàng hoá". Rất mong các bạn phóng viên, analyst ở các công ty chứng khoán/ngân hàng sử dụng thuật ngữ này khi nói về commodity price hay commodity market.
Update (comment từ FB): Chữ "hàng hoá" dân kinh tế VN đã sử dụng để dịch từ "goods", là một thuật ngữ khá chung chung để chỉ bất kỳ thứ gì một nền kinh tế sản xuất ra, tất nhiên là có ích cho xã hội (nên mới "good"). Về mặt ngôn ngữ dịch "goods" thành hàng hoá không phản ánh được yếu tố "good", nhưng điều này có lý do lịch sử.
Trước thế kỷ 20 các nhà kinh tế cổ điển sử dụng thuật ngữ commodity để chỉ hàng hoá nói chung (ví dụ Karl Marx mà bạn @Tám Huế nêu ra bên trên). Tuy nhiên trong khoảng nửa sau thế kỷ 19 từ commodity bị giới tài chính lấy mất khi các thị trường commodity hình thành ở Chicago. Thời đó các trader ở Chicago gọi thứ hàng hoá mà họ mua bán là commodity để phân biệt với stock/bond được trade ở NYSE. Thuật ngữ này cho đến ngày nay vẫn có nghĩa những loại hàng hoá là input cho quá trình sản xuất, phân biệt với output là các sản phẩm tiêu dùng cuối cùng. Commodities ngày nay bao gồm dầu mỏ, khí đốt, than (năng lượng), xi măng, kim loại, khoáng sản, các sản phẩm nông nghiệp (vì lý do lịch sử một số sản phẩm nông nghiệp dù có thể tiêu thụ trực tiếp vẫn được coi là commodity).
Sang thế kỷ 20 các nhà kinh tế dần dần chuyển sang gọi hàng hoá nói chung (trong lý thuyết kinh tế) là goods để tránh nhầm lẫn với từ commodity của giới finance (còn lý do nào khác nữa tôi không biết). Như vậy goods = commodities + consumers' products. Dịch goods thành "hàng hoá" như vậy phản ánh đúng nghĩa đồng thời gắn với lịch sử trước đây các nhà kinh tế có lúc coi commodity là hàng hoá nói chung. Các trí thức miền Bắc dịch chữ hàng hoá từ tiếng Nga (tovar) cũng trung thành với khái niệm của Marx. Bản thân tiếng Nga cũng giống tiếng Việt dùng chung chữ "tovar" cho cả goods lẫn commodity.
Một đặc điểm quan trọng của commodity (theo nghĩa trong finance) là chúng có thể mua bán trên thị trường và xuyên biên giới, thuật ngữ chuyên môn gọi là "tradable". Có lẽ vì tính chất này mà một trong những sàn giao dịch commodity đầu tiên có tên là Chicago Mercantile Exchange, chữ "mercantile"có nghĩa là mua bán/thương mại. Quả thực cho đến giữa thế kỷ 20 hầu hết thương mại quốc tế đều là mua bán commodity chứ consumers' products chỉ là số nhỏ.
Cá nhân tôi đã vấp phải từ commodity trong một dự án làm từ điển kinh tế Anh-Việt cách đây hơn 10 năm. Lúc đó dù biết từ "hàng hoá" sẽ bị nhầm vói "goods" nhưng không nghĩ ra được phương án nào tốt hơn. Sau này tôi đã trao đổi với một số chuyên gia/nhà kinh tế trong nước (mà chắc chắn giỏi hơn tôi nhiều cả về tiếng Anh lẫn tiếng Việt) nhưng không ai có phương án nào khả dĩ hơn "hàng hoá". Tôi đoán các học giả trước năm 1975 cũng phải đánh vật với thuật ngữ này trước khi chọn từ "thương phẩm". Giải pháp sử dụng chữ "thương" của họ vô cùng hay vì gắn được từ commodity với gốc gác mercantile của từ này. Những người dịch lúc đó phải hiểu rất rõ gốc gác của từ commodity, và tất nhiên họ phải có vốn Hán Việt thâm sâu. Còn tôi những lúc không thể dùng từ "hàng hoá" vì không muốn bị nhầm với "goods" chỉ đủ trình độ dịch thoáng thành "nhiên nguyên liệu thô", quả thực là rất thô/phô.
Như vậy dịch công thức "Goods = Commodities + Consumers' Goods" sang tiếng Việt thành: "Hàng hoá = Thương phẩm + Hàng tiêu dùng (cuối cùng)", theo tôi là rất đạt.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Bitcoin II
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html
-
Tôi không phản đối việc tăng giá điện, miễn là nó được quyết định bởi cung cầu và thị trường điện có cạnh tranh. Nhưng phát biểu này của thố...
-
Đọc "Ái tình và Cam ranh" của 5Xu chợt nhớ đến quốc gia này ở châu Phi. Cho dù Cam Ranh có mở cửa cho tàu của TQ vào, Djubouti mới...
-
Dành cho các bạn sinh viên kinh tế: một khoá học econometrics ngắn về network models. http://economistsview.typepad.com/economistsview/2014/...
chú có thể chia sẻ các tài liệu này không ạ?
ReplyDeletePatrick Le Huytan cảm ơn bạn!!!
ReplyDeletechí nguyễn Bạn google tên tác giả và các từ khoá nói trên sẽ ra.
ReplyDeletecảm ơn chú Giang Le...
ReplyDeleteHay quá
ReplyDeleteĐóng góp ý kiến với anh Giang Lê: nếu anh thích cách dùng của các bác trí thức trước 75 thì có thể áp dụng tương đối đơn giản bằng cách dịch lại (dịch Hán -->Hán Việt) các thuật ngữ tiếng Anh đã được dịch sang tiếng Trung. Tất nhiên có một số thuật ngữ sẽ phải chỉnh sửa lại vì những từ quá khác biệt mà người Việt hầu như không dùng nữa (vd: liquidity tiếng Trung là 流动性-tính lưu động, về ta đổi lại là tính thanh khoản hoặc đôi khi còn dùng là tính lỏng).
ReplyDeleteVí dụ ở trên như Thương phẩm 商品, Mỹ kim 美金
đều là thuật ngữ của Trung Quốc (bao gồm Đài Loan, Hồng Kong), anh có thể copy&paste kiểm tra nhanh qua google translate.
Ngoài tên gọi tiếng việt cho từ commodities, mình vẫn còn đang lúng túng nhiều về thuật ngữ việt hóa từ futures market. Nên gọi futures market là thị trường kỳ hạn, thị trường tương lai, thị trường triển hạn, thị trường giao sau...? Em có đề xuất dùng từ "thị trường kỳ hạn chuẩn". Anh +Giang Le thấy thế nào? Anh xem thêm bài ở đây: https://lehoangnhi.wordpress.com/2012/10/15/ten-goi-cho-hop-dong-va-thi-truong-ky-han-chuan-futures-contract/
ReplyDelete