Thursday, October 12, 2017

Google Translate dịch "rule of thumb" thành "nguyên tắc chung", tuy chưa thật chuẩn nhưng vẫn hay hơn "qui tắc ngón...

Google Translate dịch "rule of thumb" thành "nguyên tắc chung", tuy chưa thật chuẩn nhưng vẫn hay hơn "qui tắc ngón tay cái" của dịch giả này.

Trong ngôn ngữ hàng ngày "rule of thumb" thường có nghĩa là những qui tắc hành xử có 2 tính chất. Thứ nhất là tính mặc định (default), nếu gặp một tình huống tương tự người ta sẽ hành xử như vậy mà không/ít cần suy nghĩ. Thứ hai là tính tổng quát/chung (common), hành xử như vậy thường được đa số xã hội công nhận.

Trong kinh tế học (chính thống), "rule of thumb" còn có thêm nghĩa là đơn giản và không/ít "rational". Khái niệm và ứng dụng của "rule of thumb" trong kinh tế học có trước behavioral economics rất lâu, vd adaptive inflation hay wage setting. Điểm đột phá của behavioral economics là khái niệm rationality có giới hạn (bounded rationality) vì con người sử dụng "rule of thumb" chứ không phải lúc nào cũng tính ra giải pháp/quyết định tối ưu.

Chữ "endowment" dịch thành "quyền sở hữu" cũng không chuẩn. Endowment là những gì người ta đang có. Dù "có" và "sỡ hữu" hay đi cùng với nhau nhưng không nhất thiết là một. Sở hữu thường đi với các loại tài sản và bao hàm tính "có thể chuyển nhượng". Endowment của một người có thể gồm những thứ không thể chuyển nhượng như human capital, sức khỏe, thời gian.

Mental accounting cũng không hẳn là "tính toán cảm tính". Khái niệm này của behavioral economics phản bác lại khái niệm fungibility của tiền/tài sản mà kinh tế học chính thống thường giả định. Fungibility có thể hiểu nôm na là tiền nào cũng là tiền, còn mental accounting cho rằng tiền trúng số khác với tiền lương tháng. Vì vấn đề mental accounting nên quyết định của nhiều người không rational.

Nói thêm một chút về behavioral economics, một nhánh của kinh tế học đã từng có nhiều hứa hẹn. Cho đến giờ này nhận định phổ biến là behavioral economics hơi bị thất vọng vì nó không giúp khoa học kinh tế phát triển thêm nhiều. Những ứng dụng đình đám như khai thác các "nudges" hay các "behavioral biases" trong chinh sách hay kinh doanh chỉ là những hệ quả của tâm lý học, có tính sửa chữa/chỉnh lý những sai lầm cho kinh tế học truyền thống chứ không giúp ngành khoa học này phát triển thêm. Tôi đồng ý với nhận định của The Economist là behavioral economics chỉ giúp người ta thấy kinh tế học là một ngành khoa học rất khó nhưng chỉ có vậy.

PS. Dù "chê" cách dịch các thuật ngữ nói trên nhưng thú thật tôi không biết dịch thế nào cho hay và cho chính xác.

PPS. Vốn liếng của tôi về behavioral economics chỉ có vậy, tôi sẽ không viết gì thêm về lĩnh vực này.

http://www.thesaigontimes.vn/165496/Nhan-giai-Nobel-Kinh-te-2017-Doc-tac-pham-Tat-ca-chung-ta-deu-hanh-xu-cam-tinh.html

1 comment:

Bitcoin II

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html