Wednesday, January 30, 2013

GDP của Mỹ giảm 0.1% trong Q4 2012, quí đầu tiên có tăng trưởng âm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 07-09.

GDP của Mỹ giảm 0.1% trong Q4 2012, quí đầu tiên có tăng trưởng âm kể từ cuộc khủng hoảng tài chính 07-09. Tuy nhiên đa số các economist không quá lo ngại cho lần sụt giảm này vì chủ yếu do Mỹ cắt giảm 22% chi phí quốc phòng trong Q4, cộng với suy giảm của investment inventory.
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2013/01/americas-economy-1?fsrc=rss

Tuesday, January 29, 2013

Nhiều người "chê" BTC không có gì mới, riêng tôi biết thêm rất nhiều điều khi đọc quyển sách này.

Nhiều người "chê" BTC không có gì mới, riêng tôi biết thêm rất nhiều điều khi đọc quyển sách này. Chương 5 cũng vậy, lần đầu tiên tôi được biết về lịch sử hiện đại Campuchia, các phe phái cộng sản, cộng hòa, bảo hoàng.... và đặc biệt là lịch sử đi lên từ một sinh viên bị thi rớt 3 năm liền thành lãnh tụ một nước của Polpot. Ngay cả những chi tiết đụng độ giữa quân Polpot với VN ngay trước và sau ngày 30/4/1975 với tôi cũng rất mới. Tôi không ngờ những người anh em cộng sản đã chạm súng nhau ở Phú quốc, Thổ chu,  Poulo Wai trước khi VNCH hạ vũ khí và VN, trong vai trò vừa là đàn anh vừa là thầy của Polpot đã nhường lại đảo Poulo Wai cho "bạn" để rồi vẫn không cứu được 515 dân Việt.

Nếu những chương trước cho thấy "bên thắng cuộc" đã quá giáo điều, chủ quan, kiêu ngạo trong các hoạt động đối nội, đọc chương 5 tôi thấy họ cũng không khá gì hơn trong các hoạt động đối ngoại đầu tiên sau ngày "giải phóng". Sự tin tưởng mù quáng vào tinh thần và lý tưởng cộng sản đã che mắt những lãnh đạo đầy kinh nghiệm chiến trường mối hiểm họa chiến tranh rõ mồn một trên biên giới Tây Nam. Những người cộng sản VN vẫn tự hào họ có một mạng lưới tình báo vô cùng hữu hiệu tung hoành ở miền Nam, vậy nhưng họ hoàn toàn mù tịt về những gì xảy ra ở Campuchia. Họ thậm chí cố tình bịt tai bịt mắt khi thông tin về những cuộc đột kích, giết tróc xảy ra liên tục, khi những người Campuchia trốn sang VN sau tháng 4/1975 cảnh báo.

Nếu cuộc họp báo quốc tế đâu tiên của Ngô Điền diễn ra cuối năm 1975, hay thâm chí trong năm 1976 khi VN đã có quá nhiều bằng chứng về tội ác của linh Polpot chứ không phải đợi đến đầu năm 1978 thì biết đâu thế giới đã nhìn cuộc tấn công của VN vào Campuchia với cặp mắt khác. Nếu VN không mất 2 năm đó để chuẩn bị đối phó cho cuộc xâm lấn của Polpot và Đặng Tiểu Bình sau này thì cái giá phải trả về nhân mạng và uy tín quốc tế có cao như vậy không? Đành rằng Lê Duẩn đã cố gắng "đi dây" giữa LX và TQ, không lẽ ông không rút kinh nghiệm gì khi TQ đã bán đứng VN trong hiệp định Geneva và đã đi đêm với Nixon để lợi dụng xương máu của cả 2 phía tham chiến ở VN mang lợi về cho TQ, trong đó có Hoàng sa?

Thật chua xót trong khi Đỗ Mười đập nát kinh tế miền Nam và Lê Đức Thọ phải lên một danh sách dài máy cày, máy kéo đòi Mỹ bồi thường, thì Quân khu 9 phải cho 2 trong số 3 sư đoàn của mình đi làm kinh tế. Trong khi chính quyền lúc đó và không ít "dư luận viên" hiện nay biện hộ cho chính sách tống binh sĩ VNCH đi "học tập cải tạo" là để giữ an nình cho chế độ mới, thì họ giải giáp quân đội chính qui của mình mà không lo lắng gì về những đe dọa quân sự trên 2 tuyến biên giới đã rõ mười mươi. Đọc đoạn HĐ tả cảnh Trung đoàn 1 Sư 330 phải chạy ngược chạy xuôi ứng chiến mà không xuể mới thấy lực lượng quân sự ở cả vùng đồng bằng sông Cửu long mỏng đến thế nào, tài thao lược của tướng Lê Đức Anh đến đâu. Trong khi đó tướng Giáp đang bị hạ bệ dần để chuẩn bị đi phụ trách "đặt vòng"!

HĐ viết "Lá bài Sihanouk lần nào cũng được Trung Quốc khai thác hữu hiệu hơn Việt Nam." Đáng tiếc là không chỉ "lá bài Sihanouk", trong lịch sử hiện đại TQ gần như lúc nào cũng "trên cơ" VN. Sau năm 1975 TQ đã "trên cơ" VN trong cuộc chạy đua bình thường hóa quan hệ với Mỹ, đến năm 2000 họ lại "trên cơ" VN khi chạy đua vào WTO. Quay ngược lại lịch sử chính VN là người đỡ đầu và xây dựng lực lượng cho Polpot nhưng cuối cùng TQ lại là người được lợi nhiều nhất từ lực lượng Khmer Đỏ. Rồi sau này VN dựng Hunsen lên để rồi lại ngậm ngùi nhìn TQ nẫng tay trên. VN từng "bị hố" khi cố gán ghép Sihanouk với Polpot, đích thân Phạm Văn Đồng và Phạm Hùng phải sang vận động Chu Ân Lai năm 1970, để rồi sau này "bị hố" một lần nữa khi đề xuất "giải pháp Đỏ" ở Thành Đô năm 1990. VN muốn đóng vai "nước lớn" nhưng có lẽ chưa có lãnh đạo đủ tầm, vẫn luôn ở chiếu dưới so với TQ.

Một số chi tiết đáng lưu ý trong chương này. Thứ nhât miền Bắc đã rất "nghiêm túc" hối lộ cho Sihanouk và Lonnol hơn 36 triệu USD để chuyển vũ khí của LX viện trợ qua cảng Sihanoukville (số tiền này tương đương 20% tổng giá trị số vũ khi đi qua cảng này, nghĩa là chỉ riêng qua cảng Sihanoukville LX đã viện trợ cho VN 180 triệu USD vũ khí). Thứ hai Lê Duẩn đã rất khôn khéo không sang thăm Cuba và quyết giữ ghế cho VN ở IMF sau năm 1975, dù sau này có lúc bị gián đoạn. Thứ ba, VN đã chấp nhận bình thường hóa vô điều kiện với Mỹ cuối năm 1978 trong khi vẫn chuẩn bị ký Hiệp định hợp tác toàn diện với LX. Lãnh đạo cộng sản VN có những lúc rất thực dụng chứ không phải lúc nào cũng giáo điều, cứng nhắc. Giá như lúc nào họ cũng thực dụng như vậy.

Mấy tuần nay The Economist có một loạt bài phê phán các mô hình macroeconomics và giới thiệu một số hướng nghiên cứu...

Mấy tuần nay The Economist có một loạt bài phê phán các mô hình macroeconomics và giới thiệu một số hướng nghiên cứu mới thực tế hơn, bài này là một trong số những bài báo đó. Ý tưởng quan trọng nhất mà The Economist nêu ra là trong hơn 50 năm qua giới macroeconomist đã đi theo con đường sai lầm do Paul Samuelson vạch ra, ignore banking sector trong vai trò money creator.

Những mô hình macro sau Keynesian (như RBC, NK) đều xoay quanh mối quan hệ giữa producers và consumers, hoàn toàn vắng bóng banks. Money trong các mô hình macro truyền thống nếu không hoàn toàn neutral thì cũng chỉ có vai trò rất mờ nhạt và thường được cho là exogenous (central bank kiểm soát hoàn toàn money supply). Có lẽ chính vì sự "nhập nhằng" giữa real and nominal variables trong IS-LM nên mô hình này đã sống rất lâu và vẫn tỏ ra hiệu quả trong thời gian khủng hoảng vừa qua.

Tuy nhiên về lâu dài chắc chắn giới macroeconomist sẽ phải đưa banking vào các mô hình của họ, thậm chí phải là một trọng tâm của mô hình. Những bằng chứng empirical mà bài báo này trích dẫn cho thấy giới macro không thể ignore banks lâu hơn nữa.
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2013/01/putting-finance-macro-0?fsrc=rss

Sau vụ scandal Libor fixing, giờ đến NDF fixing.

Sau vụ scandal Libor fixing, giờ đến NDF fixing. Lần này là các traders ở Singapore, chủ yếu liên quan đến NDF của các nước ĐNA chắc có VND.
http://www.reuters.com/article/2013/01/27/us-singapore-probe-ndfs-idUSBRE90Q0IF20130127

Sunday, January 27, 2013

Năm nay lãnh đạo nào của VN tham dự Davos nhỉ?

Động thổ từ năm 2008 mà đến giờ này mới ký được hợp đồng EPC. Dự án này lại có âm hưởng của Dung quất rồi.

Động thổ từ năm 2008 mà đến giờ này mới ký được hợp đồng EPC. Dự án này lại có âm hưởng của Dung quất rồi.
http://www.businessinsider.com/japan-and-kuwait-struck-black-gold-in-vietnam-2013-1

Mày không chịu bán thì ông "thanh tra" cho mày chết.

Mày không chịu bán thì ông "thanh tra" cho mày chết.
http://www.thesaigontimes.vn/Home/taichinh/nganhang/90957/

Có vẻ cái văn bản này nhầm lẫn "vốn pháp định" với "vốn điều lệ".

Có vẻ cái văn bản này nhầm lẫn "vốn pháp định" với "vốn điều lệ". Nhà nước định cho phép lập vài cái NHNN nữa để cạnh tranh với nhau hay sau mà lại phải qui định "vốn pháp đinh"?

Bỏ qua vấn đề này, nếu NHNN phải thực hiện chế độ kế toán như các ngân hàng khác thì chuyện gì xảy ra khi owners' equity của NHNN bị âm?
http://gafin.vn/20130125095039544p0c34/ngan-hang-nha-nuoc-co-von-phap-dinh-10000-ty-dong.htm

Đến lượt ông Trương Đình Tuyển phán:

Đến lượt ông Trương Đình Tuyển phán:

"Trong ngắn hạn, mọi chuyện dường như tiếp tục ảm đạm khi tăng trưởng tín dụng âm mà giá cả vẫn tăng lên. Hơn nữa, tổng cầu của nền kinh tế đang rất thấp. “Nếu không giải quyết vấn đề này mà gắn với dài hạn thì cực kỳ nguy hiểm”."
http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/sukien/91000/

Cứ theo lập luận của ông Nguyễn Trí Hiếu này thì chính phủ cứ việc trợ giá cho người dân mua nhà, rồi sau đó mua xe,...

Cứ theo lập luận của ông Nguyễn Trí Hiếu này thì chính phủ cứ việc trợ giá cho người dân mua nhà, rồi sau đó mua xe, mua lương thực thực phẩm, chẳng cần phải làm việc làm gì cho mệt.
http://vneconomy.vn/20130128101235908P0C6/cho-vay-mua-nha-nhin-my-ma-hoc-hoi.htm

Tôi nghe đồn ông Lê Minh Hưng thuộc giai cấp "princeling", nhưng đã mang danh phó thống đốc thì không nên phát biểu...

Tôi nghe đồn ông Lê Minh Hưng thuộc giai cấp "princeling", nhưng đã mang danh phó thống đốc thì không nên phát biểu tệ thế này:

“Trước đây các ngân hàng, doanh nghiệp nhập khẩu vàng về, họ phải đi gom một lượng ngoại tệ. Điều này dễ tác động lên tỷ giá. Nay NHNN xuất nhập khẩu trực tiếp và khi đó NHNN có thể nắm bắt diễn biến thị trường để chủ động khối lượng cần thiết, không gây biến động tỷ giá vàng thị trường ngoại tệ cũng như ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối.”
http://gafin.vn/20130128102049730p0c34/nhnn-se-tham-gia-thi-truong-vang-nhu-the-nao.htm

Sunday, January 20, 2013

Tôi vẫn thắc mắc không biết ai là người nghĩ ra chữ "nạn kiều", có lẽ là một người Hoa hay một cán bộ tuyên truyền...

Tôi vẫn thắc mắc không biết ai là người nghĩ ra chữ "nạn kiều", có lẽ là một người Hoa hay một cán bộ tuyên truyền của TQ vì chữ này chắc được viết tắt từ "Hoa kiều tai nạn". Đa số người Việt vượt biên sau năm 1975 ra đi, dù phải liều lĩnh tính mạng của bản thân và gia đình mình, họ có niềm hi vọng sẽ đến được một miền "đất hứa" với tự do, giàu có. Trong khi đó người gốc Hoa ra đi vì họ bị xua đuổi và chẳng biết số phận họ sẽ đi về đâu. Với họ việc phải rời bỏ quê hương thứ hai, nhiều người trong số đó là quê hương duy nhất, thực sự là một "tai nạn" chứ không phải cuộc đào tẩu đi tìm miền đất hứa.

Chương 4 là chương đầu tiên có 3 section quay ngược lại những sự kiện lịch sử trước 1975: hội nghị Geneva, quan hệ giữa VNDCCH với TQ những năm tháng "chống Mỹ cứu nước", và sự kiện TQ chiếm Hoàng sa năm 1974. Dù phần review rất ngắn gọn này vạch trần sự thâm hiểm của TQ trong mối quan hệ với VN từ năm 1954, mục đích của HĐ khi viết 3 phần này có lẽ là muốn giải thích lý do tai sao Lê Duẩn lại cứng rắn đến vậy với Hoa kiều khi TQ bắt đầu trở mặt, bất chấp ông và nhiều đồng chí của ông đã từng được những gia đình người Hoa cưu mang, che dấu trong những năm chiến tranh. Đọc chương trước tôi đã nhận xét Lê Duẩn cử Đỗ Mười vào thay Nguyễn Văn Linh chỉ đạo cải tạo công thương vì Nguyễn Văn Linh có quá nhiều ơn nghĩa với giới tư sản, cụ thể là tư sản Chợ Lớn, nên sẽ không làm mạnh tay. Trong chương này HĐ trích dẫn Trần Phương chính thức khẳng định điều này.

Nhưng sẽ quá đơn giản khi cho rằng cái "paranoia" của Lê Duẩn với Hoa kiều chỉ vì Trung hoa Cộng sản đã lợi dụng cuộc chiến và xương máu của "đàn em phương Nam" thu lợi cho mình, chưa kể những âm mưu "bá quyền" khác. Cái paranoia đó đã có từ thời Ngô Đình Diệm khi ông này cấm người Hoa không được kinh doanh mười một ngành nghề, hay sau đó thời Nguyễn Văn Thiệu đã cho soạn một tài liệu chỉ ra vai trò lũng đoạn của các "ông vua" người Hoa Chợ Lớn, là bản tài liệu đã được chính quyền sau năm 1975 sử dụng trong chiến dịch X2. Rồi không chỉ VN, hầu như toàn bộ các nước ĐNA (có lẽ trừ Singapore) luôn có tâm lý nghi ngờ người Hoa và đã có không ít sự kiện "nạn kiều" xảy ra ở các nước này trước khi Lê Duẩn hạ lệnh tống khứ "đội quân thứ năm" ra khỏi lãnh thổ VN. Người Hoa chưa từng được thiện cảm ở những nơi họ di cư đến mà luôn bị nghi ngờ, đố kỵ.

Công bằng mà nói khái niệm "đội quân thứ năm" do chính Mao Trạch Đông đưa ra với tham vọng không cần che dấu sẽ sử dụng đội quan này cho mục đích bá quyền của mình đã làm các quốc gia láng giềng lo ngại. Nhưng có lẽ sức mạnh của đội quân này và khả năng họ trở thành những "con ngựa thành Troy" đã bị thổi phồng quá đáng. Hay thậm chí tệ hơn nữa một số người, có thể từ Lê Duẩn, Nguyễn Đức Tâm, đến các cán bộ công an tỉnh, phường xã lợi dụng cái paranoia này để thanh toán những tư thù cá nhân, các đối thủ chính trị, hay thu vén cho bản thân mình. Vụ Mười Vân, giám đốc công an Đồng Nai, bị xử tử nhiều khả năng cũng liên quan đến vấn đề này. Đến nay đọc những sự kiện bi thương của các gia đình Hoa kiều trong BTC và cả những gì cá nhân tôi đã chứng kiến so với những mối đe dọa bị thổi phồng, tôi (có lẽ HĐ cũng vậy) thực sự đau xót cho những gì đã xảy ra với họ. Mong rằng trang đen tối này của lịch sử sẽ không lặp lại dù sau này VN và TQ có thể lại lâm chiến một (vài) lần nữa.

Một câu hỏi lớn mà lịch sử sẽ phải trả lời là số vàng mà "bên thắng cuộc" thu được đã đi đâu, được sử dụng như thế nào? Nguyễn Văn Thiệu đã được minh oan không đem theo 16 tấn vàng sang Đài loan và Nguyễn Văn Hảo đã bàn giao toàn bộ số vàng này cho chính quyền mới. Vụ đánh tư sản mại bản (X2) thu 7000 lượng vàng (tương đương 262.5kg), đánh tư sản công thương thu 5 tấn vàng (theo Huỳnh Bửu Sơn), Phương án 2 thu 16181kg (theo báo cáo của Ban 69). Như vậy không kể ngoại tệ, kim cương, đá quí và các tài sản khác, chỉ riêng số vàng chính quyền đã (tịch) thu chính thức lên đến hơn 37 tấn (so với số vàng dự trữ hiện tại của NHNN khoảng hơn 10 tấn). Chỉ có duy nhất một thông tin không chính thức do Bùi Tín thuật lại lời Trường Chinh năm 1987 rằng số vàng đó đã bị bán hết trong những năm bao cấp khó khăn để mua lương thực, nguyên liệu. Nhân dân VN cần có câu trả lời chính thức.

[Update: Báo Tuổi Trẻ ngày 10/4/2015 cho biết (bán chính thức) là giai đoạn 1979-1980 VN đã chuyển sang Liên Xô 40 tấn vàng trong đó bao gồm 16 tấn tiếp quản của chính quyền VNCH. Số vàng này được LX tái chế để bán ra nước ngoài và thế chấp vay ngoại tệ của LX. Tổng số tiền thu được khoảng 500 triệu USD để nhập lương thực trong giai đoạn khó khăn đó.Link:  http://tuoitre.vn/tin/chinh-tri-xa-hoi/phong-su-ky-su/20150410/thuong-vu-dac-biet-ban-vang/731957.html]


Một chi tiết ngoài lề: nếu Lê Duẩn còn sống chắc ông sẽ không đồng ý cho TQ vào khai thác bauxite ở Tây nguyên vì ông đã từng nói thế này: "Trung Quốc nói làm đường cho Lào sau đó họ lập làng Trung Quốc trên đất Lào. Bây giờ họ muốn thăm dò ta về đường Trường Sơn thì nay mai họ sẽ chiếm Trường Sơn. Về chiến lược, ai đứng chân trên đỉnh Trường Sơn người đó sẽ khống chế cả Đông Dương, cho nên mình phải tính".

Một chi tiết rất quan trọng nữa được BTC tiết lộ trong chương này là đoạn Trần Phương nói về công hàm 1958: "... trước khi ký công hàm này, Phạm Văn Đồng có bàn bạc với Hồ Chí Minh và vấn đề còn được đưa ra bàn ở "cấp cao nhất"". Như vậy sẽ thật bất công cho Phạm Văn Đồng một mình phải chịu búa rìu dư luận vì đã ký công hàm đó. "Cấp cao nhất" đúng ra phải chịu trách nhiệm cùng, thậm chí cao hơn ông Đồng, bao gồm: Hồ Chí Minh, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh...

Saturday, January 5, 2013

Hồi nhỏ tôi có một thắc mắc mà không thể tìm được câu trả lời (hồi đó chưa có Google) là tại sao phe Cộng hoà lại...

Hồi nhỏ tôi có một thắc mắc mà không thể tìm được câu trả lời (hồi đó chưa có Google) là tại sao phe Cộng hoà lại thua trong cuộc nội chiến Tây Ban Nha năm 1936-1939 mặc dù họ được gần như toàn bộ thế giới ủng hộ. Trong những đoàn quân tình nguyện quốc tế chiến đấu chống lại phe phát xít Franco có những tên tuổi nổi tiếng như Ernest Hemingway, Albert Hirschman, George Orwell (hình như có cả một số người Việt cũng sang tình nguyện chiến đấu cho phe Cộng hoà).

Sau này đọc sách và xem một số bộ phim mới biết phe Franco thắng vì được đa số giới địa chủ, doanh nhân giàu có ở Tây Ban Nha lúc đó support nên có vũ khí và các resource khác mạnh hơn phe Cộng hoà. Và lý do mà những người giầu có chống lại phe Cộng hoà vì họ lo sợ CNCS tràn vào Tây Ban Nha, điều mà nhiều nước châu Âu lúc đó cũng lo ngại vì làn sóng quốc tế Cộng sản đang dâng lên rất cao. Giai cấp tư sản lo ngại nếu những người Cộng sản cướp được chính quyền họ quốc hữu hoá hết đất đai, tài sản của giới giàu có đúng như những gì Karl Marx đã khuyến cáo trong The Communist Manifesto.

Nhưng giới tư bản, địa chủ ở miền Nam VN năm 1975 không tỉnh táo như vậy dù họ đã có thông tin, kinh nghiệm từ thời cải cách ruộng đất ở miền Bắc. Đọc chương 3 có thể thấy "bên thắng cuộc" đã rất thành công khi "đánh" tư sản, dù là mại bản hay công thương, thậm chí cả tầng lớp middle class với một ít tiền mặt để dành. Gần như toàn bộ giới có tiền ở miền Nam bị bất ngờ, không chuẩn bị đối phó được gì và... mất sạch. Có thể họ quá yêu nước nên không di tản trước ngày 30/4, có thể họ quá ngây thơ tin tưởng vào những tuyên bố hoà hợp hoà giải của Mặt trận và câu nói của Trần Văn Trà với Dương Văn Minh, có thể họ quá chủ quan khi không nghĩ rằng những người anh em vừa về "giải phóng" mình lại có thể thẳng thừng đến thế. Trong khi đó "bên thắng cuộc" đã thực thi The Communist Manifesto rất bài bản.

Trong chương này HĐ đã chỉ ra rất rõ cái tên sẽ phải chịu trách nhiệm với lịch sử về những chiến dịch đánh tư sản: Đỗ Mười và đằng sau đó là Lê Duẩn. Quá tự phụ với chiến thắng quân sự của phe mình, Lê Duẩn đã không chấp nhận một nhượng bộ nào về mặt tư tưởng. Từ việc gạt bỏ thẳng thừng thành phần thứ ba ra khỏi chính phủ hiệp thương (trên thực tế cũng gần như loại bỏ hoàn toàn Mặt trận Giải phóng Miền Nam), đến việc đưa Đỗ Mười, một nhân vật không có bất kỳ ân nghĩa gì với dân miền Nam vào thay Nguyễn Văn Linh để đánh tư sản. Quá cứng nhắc, giáo điều, Lê Duẩn, Đỗ Mười và không ít những cán bộ Cộng sản khác (vd Lý Mỹ) đã đập tan cơ cấu kinh tế của miền Nam sau khi đã thành công đập tan quân đội và chính quyền VNCH. Có lẽ trong tâm thức họ đến lúc đó miền Nam mới hoàn toàn được "giải phóng".

Ở chương này tôi có quan điểm gần với HĐ khi đau xót thuật lại những chính sách sai lầm của Lê Duẩn và những người Cộng sản khác nhưng khá bình tĩnh chứ không căm phẫn kết tội họ như một số người "bên thua cuộc". Ngoại trừ một trường hợp tham nhũng duy nhất (đổi tiền chia 5:5) trong chiến dịch X2, có lẽ tất cả những người tham gia vào các chiến dịch đánh tư sản và cướp đoạt tài sản của họ trong thời gian này tin rằng họ làm thế vì tương lai đất nước. Dù sau đó họ có cảnh tình (phần nào) như trường hợp ông Võ Văn Kiệt khi chứng kiến nền kinh tế miền Nam sụp đổ, những con người đó đã hành động theo những gì họ tin tưởng không một chút vụ lợi, khác với những thể loại "nhóm lợi ích" nhan nhản hiện nay.

Nhưng chương 3 này để lại một bài học vô cùng quan trọng. Đối với những người nắm quyền lực trong tay, sự mù quáng, tin tưởng giáo điều vào một lý tưởng nào đó, dù cộng sản hay tư bản, đều vô cùng nguy hiểm. Người lãnh đạo phải biết tỉnh táo nhìn nhận, lắng nghe và thay đổi chính sách khi tình hình thay đổi. Đối với người dân, nhất là những người có của cải, phải cảnh giác với những chính thể, những cá nhân đã từng có những chính sách tai hại trong quá khứ. Hãy tỉnh táo như những nhà tư sản Tây Ban Nha năm 1936 chứ đừng ngây thơ như Phạm Văn Tư, Lai Ninh, Trần Văn Đước.

Wednesday, January 2, 2013

PMI tháng 12 của VN giảm xuống 49.3.

PMI tháng 12 của VN giảm xuống 49.3.
http://www.markiteconomics.com/Survey/Page.mvc/PressReleases

Chương 2 có một số chi tiết làm tôi phải thay đổi nhận xét trước đó cho rằng "bên thắng cuộc" thiếu sự chuẩn bị cho...

Chương 2 có một số chi tiết làm tôi phải thay đổi nhận xét trước đó cho rằng "bên thắng cuộc" thiếu sự chuẩn bị cho ngày chiến thắng và thời hậu chiến. Ngay từ khi Trung ương cục còn ở R, những ngày cuối tháng 4/1975, họ đã chuẩn bị những mênh lệnh của Uỷ ban quân quản sau khi chiếm được SG. Trước đó Bộ Chính trị đã xác định kế hoạch sẽ tập trung cải tạo, hay nói trắng ra là bắt nhốt, những sĩ quan và quan chức cao cấp của VNCH dài hạn. Dù có bênh vực Võ Văn Kiệt đến mấy, HĐ cũng phải để ông này thừa nhận đã tham gia vào kế hoạch tung tin hoả mù để các sĩ quan VNCH tin rằng cải tạo chỉ kéo dài 1 tháng.

Khác với các chính sách khác đối với miền Nam và cho cả VN trong những chương sau, trong chương này HĐ không chỉ ra được tên tuổi cụ thể của người đề xướng chính sách cải tạo dài hạn này. Mặc dù với quyền lực bao phủ lúc đó Lê Duẩn chắc chắn là người có tiếng nói quyết định, nhưng những cái tên khác như Trường Chinh, Lê Đức Thọ và giới quân nhân, đặc biệt là Võ Nguyên Giáp, thì sao? Chính sách này hoàn toàn là của VN hay có tham khảo kinh nghiệm LX, TQ? Có lẽ trong số lãnh đạo cao cấp VN mới chỉ có Võ Văn Kiệt phần nào ân hận về chính sách cải tạo dài hạn này. Cho đến nay vẫn có nhiều người cho rằng tống giam các "sĩ quan Nguỵ" sau 30/04/1975 là một chính sách đúng, hay ít ra là cần thiết để đảm bảo an ninh và bảo vệ chính quyền vừa giành được.

Nhưng chính điều này cho thấy bản thân "bên thắng cuộc" không tự tin về "chính nghĩa giải phóng" của mình. Trong cuộc Tổng Tấn công và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, cái vế "nổi dậy" gần như vắng bóng, giống như trong Mậu Thân 1968. Người dân miền Nam thực sự chán ngán chiến tranh nhưng có thực họ nghĩ miền Bắc/Mặt trận kéo về "giải phóng" họ? Binh lính VNCH có thực chỉ là tay sai cho Mỹ nên khi hiểu ra chính nghĩa sẽ không chống đối? Những người lãnh đạo ở HN đã có kinh nghiệm với Quốc Dân Đảng, Việc Quốc, Việt Cách sau tháng 8/1945, họ thừa hiểu rằng chỉ có "bạo lực cách mạng" và "chuyên chính vô sản" mới bảo vệ được thành quả của họ. Nói cho công bằng dù sao "cải tạo dài hạn" cũng là một biện pháp nhẹ nhàng nhất trong các thang bậc "bạo lực cách mạng", ít nhất so với những gì Stalin đã làm với những người cộng tác với Đức Quốc xã ở các vùng bị chiếm.

Mặc dù không nói ra, HĐ ngầm trách Dương Văn Minh đã không làm gì để bảo vệ hay ít ra làm giảm bớt sự trừng phạt của phe thắng trận đối với binh lính của mình. Ông chấp nhận đi vào lịch sử với tư cách một bại tướng phải chấp nhận đầu hàng vô điều kiện, có thể vì lý do cao cả muốn tránh hai bên đổ máu thêm vào giờ thứ 25 và giữ nguyên vẹn SG, nhưng ông chỉ ký được "sự vụ lệnh" duy nhất cho phép tàu Việt nam Thương tín di tản (trong khi Việt cộng Phạm Xuân Ẩn lại giúp cho Trần Kim Tuyến ra đi chỉ vì tình nghĩa). Thật trớ trêu là mặc dù trong những ngày cuối cùng của cuộc chiến phía Mỹ đã tìm cách di tản những nhân viên người Việt có "rủi ro cao" (dù có những kế hoạch di tản bị thất bại như trong footnote 48), không có bằng chứng nào cho thấy họ đã tìm cách gây sức ép với phía VN chấm dứt chương trình cải tạo dài hạn trong các cuộc đàm phán nối lại quan hệ ngoại giao ngay sau cuộc chiến. Bên thua cuộc đã hầu như bị thế giới lãng quên sau ngày 30/04/1975, họ chỉ được biết đến khi làn sóng vượt biên gia tăng sau này.

Chương 2 không tránh khỏi có những hạt sạn như chi tiết về Đặng Hoàng Hà hay số liệu về số tướng VNCH phải đi học tập cải tạo. Nhưng chương này rất thành công tạo ra cảm giác u ám, bất an trong xã hội miền Nam lúc đó. Mặc dù chính sách bắt tù đày dài hạn với danh nghĩa cải tạo đã bị HĐ bóc trần, tôi vẫn có cảm giác HĐ đã viết nhẹ hơn những gì thực sự xảy ra. Không một thống kê về số người đi cải tạo bị chết ngoài một số ví dụ lẻ tẻ, không có số liệu hay thậm chí hồi ức về những vụ trốn trại thành công và bất thành. Tôi rất tò mò muốn biết những người quản giáo các trại cải tạo bây giờ suy nghĩ thế nào về thời gian đó, giá như HĐ có thể phỏng vấn ai đó.

Tôi không rõ nguồn Khampha mà bài báo này trích dẫn tin cậy đến mức nào, nhưng nếu thông tin này đúng thì thống đốc...

Tôi không rõ nguồn Khampha mà bài báo này trích dẫn tin cậy đến mức nào, nhưng nếu thông tin này đúng thì thống đốc nên claim nốt nửa giải Nobel còn lại:

"Thời gian tới giá vàng sẽ do NHNN điều khiển, kiến tạo theo hướng tăng thêm dự trữ ngoại hối, chuyển số vàng đó thành tiền phục vụ sản xuất kinh doanh, Thống đốc nói."
http://gafin.vn/2012122711314654p0c34/thong-doc-nhnn-san-sang-kinh-doanh-vang-mieng.htm

Việc này mà cũng đến tay thủ tướng hay .... đến việc này mà thủ tướng cũng muốn nhúng tay vào?

Việc này mà cũng đến tay thủ tướng hay .... đến việc này mà thủ tướng cũng muốn nhúng tay vào?
http://vneconomy.vn/20121228104017144P0C6/thu-tuong-duyet-de-an-hop-nhat-western-bank-pvfc.htm

Tôi chưa từng biết một nguyên thủ quốc gia nào nói về "tổng cầu" (aggregate demand) của nền kinh tế.

Tôi chưa từng biết một nguyên thủ quốc gia nào nói về "tổng cầu" (aggregate demand) của nền kinh tế.
http://www.thesaigontimes.vn/Home/xahoi/sukien/89628/

Bitcoin II

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html