Cuối tuần trước trong khi báo chí và mạng xã hội VN đang bận rộn với vụ Phùng đại tướng "chữa bệnh thắng lợi trở về" giới finance quốc tế xôn xao về một bài viết của Ray Dalio, founder của Bridgewater - một trong những hedge fund lớn nhất và thành công nhất trên thế giới. Cách đây khoảng 1 năm tôi đã từng có link đến một "cẩm nang" về kinh tế của Dalio mà bản thân ông nói đó là chìa khoá cho sự thành công của mình.
Điều đáng nói là Bridgewater từ trước tới nay rất lạc quan về TQ nhưng trong bài viết vừa rồi Ray Dalio cho rằng không còn bất kỳ lĩnh vực nào an toàn để đầu tư ở thị trường này nữa. Lý do quan trọng nhất là TQ đang đối mặt với ba loại headwind - thuật ngữ của giới đầu tư chỉ những trở ngại/lực cản/khó khăn cho một thị trường. Thị trường chứng khoán suy sụp chỉ là bước khởi đầu cho sự đi xuống của kinh tế TQ. Headwind thứ nhất là thị trường bất động sản, không chỉ bong bóng giá mà vấn đề oversupply sẽ làm giảm property investment ngay cả khi giá không bị collapse. Cái này VN đã có kinh nghiệm rồi.
Thứ hai là debt overhang dù đó chỉ là private domestic debt (không như Hy Lạp có public foreign debt cao). TQ có tốc độ tăng trưởng tín dụng khá cao trong vài năm qua trong khi nominal GDP chựng dần. Q1 2015 họ công bố real GDP tăng 7% yoy nhưng nominal GDP chỉ tăng 5.8%, Q2 real GDP lại tăng 7% nominal GDP cũng chỉ là 7.1%, thấp hơn nhiều so với mặt bằng hơn 10% những năm trước đó. Gánh nặng nợ nần, dù chưa phải/chưa công khai là nợ xấu, sẽ gia tăng dẫn đến credit growth phải giảm và đầu tư+tăng trưởng bị ảnh hưởng. Kinh nghiệm deleveraging của Nhật trước đây và Mỹ mấy năm qua vẫn còn đó.
Thứ ba là quá trình structural reform dịch chuyển nền kinh tế từ một manufacturing warehouse của thế giới sang một dạng consumption driven economy như đa số các nước. Điều này không thể tránh khỏi vì giá nhân công TQ ngày càng tăng chưa kể demography đang trở nên bất lợi. Chưa biết consumption có tăng dần không (vì dân số đang già đi và giới giàu có chạy ra nước ngoài) nhưng sự thu hẹp đầu tư trong ngắn hạn, không kể disinvestment dạng như doanh nghiệp chuyển nhà máy sang VN hay các nước có low cost labour, cũng là một thứ headwind cho nền kinh tế.
Cả ba loại headwind này đã được nhiều người nhắc đến, tuy nhiên tên tuổi của Ray Dalio làm giới finance không thể bỏ qua. Thậm chí có người còn cho rằng bài viết này của Dalio là một trong những nguyên nhân dẫn đến cú selloff hơn 8% của SHCOMP ngày thứ Hai vừa rồi. Ở đây tôi cho rằng cần phải lưu ý headwind thứ hai nhất vì nguyên lý căn bản trong cuốn "cẩm nang" của Dalio là phân tích các dòng tiền trong nền kinh tế nên tôi nghĩ Bridgewater chắc chắn đã phân tích vấn đề domestic debt của TQ rất kỹ lưỡng chứ không phải chỉ nói theo người khác.
Nhưng quan trọng hơn bài báo link bên dưới của The Economist trích dẫn một số nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng những vụ asset price bubble (bất động sản, chứng khoán) sụp đổ sẽ rất nguy hiểm nếu kèm theo đó là debt bubble. Nói cách khác nếu tỷ lệ nợ (công + tư) trên nominal GDP tăng quá nhanh thì khủng hoảng trên thị trường tài chính sẽ kéo theo suy thoái kinh tế trầm trọng hơn rất nhiều. Trong trường hợp này can thiệp của nhà nước là cần thiết nhưng hiệu quả đến đâu lại là vấn đề khác.
The Economist, cũng như hầu hết giới economist/finance phương Tây, phê phán các biện pháp can thiệp hành chính của TQ. Tuy nhiên tờ tạp chí này có vẻ ủng hộ việc PBoC và một số ngân hàng/broker TQ lập quĩ để mua vào cổ phiếu nhằm xác lập giá đáy. Ý tưởng ngân hàng trung ương target giá chứng khoán này không phải là mới, không phải chỉ có Roger Farmer như The Economist trích dẫn mà thậm chí Robert Shiller cũng từng đề cập đến. Nếu market cap của thị trường chứng khoán đủ lớn thì ý tưởng này cũng tương đương như nominal GDP targeting/anchoring. Có điều chính The Economist cũng phải thừa nhận central bank thiết lập giá sàn cho thị trường chứng khoán thì dễ (vd Greenspan's put) chứ khó có chuyện họ sẽ tự chọc cho bong bóng chứng khoán vỡ, nhất là khi bản thân họ đang có một portfolio rất lớn.
Vậy bài học cho VN là gì? Có lẽ NHNN phải căng mắt ra quan sát credit growth khi mà nó đang nóng trở lại. Phải thực sự phân biệt được thời điểm nào tín dụng chảy vào nền kinh tế thực, lúc nào nó chủ yếu bơm cho các hoạt động đầu cơ. Nhưng cũng không nên quá hi vọng vào NHNN, không chỉ vì năng lực của cơ quan này có hạn mà bản thân việc giám sát nói trên rất khó. Tôi nghĩ quan trọng nhất là VN phải xây dựng được một hệ thống ngân hàng lành mạnh và có năng lực. Để đạt được điều đó cần phải có một thị trường có tính cạnh tranh cao và bình đẳng. Cứ để các ngân hàng yếu kém phá sản, cứ để các ngân hàng nhỏ nhưng làm ăn hiệu quả hoạt động mà đừng ép buộc tăng vốn. Còn giá chứng khoán/nhà đất lên xuống thế nào không cần quá quan tâm.
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21657817-new-research-suggests-it-debt-not-frothy-asset-prices-should-worry?frsc=dg%7Cd
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21657817-new-research-suggests-it-debt-not-frothy-asset-prices-should-worry?frsc=dg%7Cd
Friday, July 31, 2015
The Economist | Free exchange: Sorry to burst your bubble...
The Economist | Free exchange: Sorry to burst your bubble http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21657817-new-research-suggests-it-debt-not-frothy-asset-prices-should-worry?frsc=dg%7Cd via @theeconomist
Tuesday, July 28, 2015
The Economist | Politics: Confucius says, Xi does...
The Economist | Politics: Confucius says, Xi does http://www.economist.com/news/china/21659753-communist-party-turns-ancient-philosophy-support-confucius-says-xi-does?frsc=dg%7Cd via @theeconomist
http://www.economist.com/news/china/21659753-communist-party-turns-ancient-philosophy-support-confucius-says-xi-does?frsc=dg%7Cd
http://www.economist.com/news/china/21659753-communist-party-turns-ancient-philosophy-support-confucius-says-xi-does?frsc=dg%7Cd
The Economist | The evolution of growth: Multiplier effects...
The Economist | The evolution of growth: Multiplier effects http://www.economist.com/news/books-and-arts/21659692-physicist-explains-how-order-born-multiplier-effects?frsc=dg%7Cd via @theeconomist
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21659692-physicist-explains-how-order-born-multiplier-effects?frsc=dg%7Cd
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21659692-physicist-explains-how-order-born-multiplier-effects?frsc=dg%7Cd
Thursday, July 16, 2015
Giống VN, Anh đang đau đầu về vấn đề quá tải sân bay và lựa chọn phải nâng cấp cảng hàng không ở đâu.
Giống VN, Anh đang đau đầu về vấn đề quá tải sân bay và lựa chọn phải nâng cấp cảng hàng không ở đâu. Khác với VN, Anh đã thành lập Airport Commission, một hội đồng tư vấn độc lập do Sir Howard Davies (*) đứng đầu, nghiên cứu và đưa ra khuyến nghị về phương án mở rộng sân bay.
Sau hơn 3 năm đánh giá hiệu quả kinh tế, tác động xã hội, môi trường, hội đồng này khuyến nghị xây thêm đường băng thứ ba cho sân bay Heathrow bất chấp phương án này bị phản ứng dữ dội về mặt chính trị. Heathrow cách trung tâm London 22km bị bao bọc bởi các khu dân cư đông đúc được chọn thay cho phương án phát triển ở Gatwick cách London 48km.
Nếu xây thêm đường băng thứ 3 ở Heathrow, dự kiến London sẽ phải giải tỏa 800 hộ dân và vấn đề tiếng ồn/ô nhiễm do hoạt động của sân bay sẽ tăng lên, ảnh hưởng đến khoảng 47,000 hộ dân khác. Bởi vậy phương án này bị nhiều chính trị gia phản đối kể cả một số nghị sĩ đảng Bảo thủ, trong đó có thị trưởng London Boris Johnson, người có khả năng sẽ thay thế thủ tướng Cameron trong tương lai. Chưa biết chính phủ Cameron có chấp nhận khuyến nghị này hay không nhưng chí ít vấn đề phát triển sân bay ở đâu đã được các nhà kinh tế nghiên cứu cẩn thận.
(*): Sir Howard Davies là một nhà kinh tế rất uy tín ở Anh, từng là hiệu trưởng LSE và là một columnist rất nổi tiếng trên FT. Hiện ông dạy ở Sciences Po - đồng nghiệp với bạn Đỗ Quốc Anh.
https://en.wikipedia.org/wiki/Airports_Commission
https://en.wikipedia.org/wiki/Airports_Commission
Sau hơn 3 năm đánh giá hiệu quả kinh tế, tác động xã hội, môi trường, hội đồng này khuyến nghị xây thêm đường băng thứ ba cho sân bay Heathrow bất chấp phương án này bị phản ứng dữ dội về mặt chính trị. Heathrow cách trung tâm London 22km bị bao bọc bởi các khu dân cư đông đúc được chọn thay cho phương án phát triển ở Gatwick cách London 48km.
Nếu xây thêm đường băng thứ 3 ở Heathrow, dự kiến London sẽ phải giải tỏa 800 hộ dân và vấn đề tiếng ồn/ô nhiễm do hoạt động của sân bay sẽ tăng lên, ảnh hưởng đến khoảng 47,000 hộ dân khác. Bởi vậy phương án này bị nhiều chính trị gia phản đối kể cả một số nghị sĩ đảng Bảo thủ, trong đó có thị trưởng London Boris Johnson, người có khả năng sẽ thay thế thủ tướng Cameron trong tương lai. Chưa biết chính phủ Cameron có chấp nhận khuyến nghị này hay không nhưng chí ít vấn đề phát triển sân bay ở đâu đã được các nhà kinh tế nghiên cứu cẩn thận.
(*): Sir Howard Davies là một nhà kinh tế rất uy tín ở Anh, từng là hiệu trưởng LSE và là một columnist rất nổi tiếng trên FT. Hiện ông dạy ở Sciences Po - đồng nghiệp với bạn Đỗ Quốc Anh.
https://en.wikipedia.org/wiki/Airports_Commission
https://en.wikipedia.org/wiki/Airports_Commission
Mặc dù trái phiếu chính phủ VN trong nước trả trái tức (coupon) theo năm, trái phiếu do VN phát hành ra thị trường...
Mặc dù trái phiếu chính phủ VN trong nước trả trái tức (coupon) theo năm, trái phiếu do VN phát hành ra thị trường nước ngoài (bằng USD) lại sử dụng thông lệ 6 tháng, có lẽ vì underwriter nước ngoài (Barclays, Deutsche, HSBC...) tư vấn. Day count convention là 30/360. Trái phiếu chính phủ ở VN sử dụng day count convention gì nhỉ?
http://em.cbonds.com/emissions/issue/95909
http://em.cbonds.com/emissions/issue/95909
http://em.cbonds.com/emissions/issue/95909
http://em.cbonds.com/emissions/issue/95909
Tuesday, July 14, 2015
Cái này chắc không mới với các bạn bond trader/manager ở VN nhưng đến giờ tôi mới biết.
Cái này chắc không mới với các bạn bond trader/manager ở VN nhưng đến giờ tôi mới biết. Long-term government bond (>2 year) của VN trả coupon hàng năm chứ không theo thông lệ 6 tháng của đa số các nước. Hầu hết các nước phát triển (trừ Đức và Pháp) trả coupon 6 tháng 1 lần. Xem thông tin trên Asianbondsonline.adb.org cũng thấy đa số các nước châu Á (Nhật, Hàn, Singapore, Thailand, Indonesia, Philippines) cũng sử dụng thông lệ 6 tháng.
Không hiểu vì lý do gì VN lại chọn trả coupon theo năm. Cách này tuy đơn giản hơn cho việc tính toán và ghi sổ sách nhưng gây khó khăn cashlfow lớn hơn vào các thời điểm thanh toán coupon. Ngoài ra khi phát hành cùng một loại bond trả coupon 6 tháng sẽ được yield thấp hơn coupon 1 năm, nghĩa là BTC sẽ thu được nhiều tiền hơn trong cùng một điều kiện thị trường (dù chênh lệch không lớn).
PS. Tôi thích cách dịch coupon thành "trái tức", tiếc là nhiều bài báo ở VN và thậm chí tài liệu của HNX và một số tổ chức tài chính vẫn sử dụng thuật ngữ "lãi/lãi suất". Bài báo link bên dưới cũng vậy.
http://www.thesaigontimes.vn/132651/Lan-dau-tien-phat-hanh-trai-phieu-chinh-phu-ky-han-20-nam.html
http://www.thesaigontimes.vn/132651/Lan-dau-tien-phat-hanh-trai-phieu-chinh-phu-ky-han-20-nam.html
Không hiểu vì lý do gì VN lại chọn trả coupon theo năm. Cách này tuy đơn giản hơn cho việc tính toán và ghi sổ sách nhưng gây khó khăn cashlfow lớn hơn vào các thời điểm thanh toán coupon. Ngoài ra khi phát hành cùng một loại bond trả coupon 6 tháng sẽ được yield thấp hơn coupon 1 năm, nghĩa là BTC sẽ thu được nhiều tiền hơn trong cùng một điều kiện thị trường (dù chênh lệch không lớn).
PS. Tôi thích cách dịch coupon thành "trái tức", tiếc là nhiều bài báo ở VN và thậm chí tài liệu của HNX và một số tổ chức tài chính vẫn sử dụng thuật ngữ "lãi/lãi suất". Bài báo link bên dưới cũng vậy.
http://www.thesaigontimes.vn/132651/Lan-dau-tien-phat-hanh-trai-phieu-chinh-phu-ky-han-20-nam.html
http://www.thesaigontimes.vn/132651/Lan-dau-tien-phat-hanh-trai-phieu-chinh-phu-ky-han-20-nam.html
Monday, July 13, 2015
Dù hai phán quyết nổi tiếng vừa rồi của SCOTUS bất lợi cho phe Cộng hòa, tòa án hiến pháp này phân xử công minh theo...
Dù hai phán quyết nổi tiếng vừa rồi của SCOTUS bất lợi cho phe Cộng hòa, tòa án hiến pháp này phân xử công minh theo đúng tinh thần thượng tôn pháp luật chứ không phải vì các thẩm phán "bênh" phe Dân chủ. Bằng chứng là chưa đầy một tuần sau khi "cứu" Obamacare, SCOTUS đưa ra một phán quyết bất lợi cho các chính sách môi trường của chính phủ Obama (vụ Michigan v. EPA ngày 29/6/2015).
Tất nhiên một hệ thống tư pháp độc lập/đứng ngoài chính trị luôn cần thiết chứ không chỉ một tòa án hiến pháp, nhưng tòa hiến pháp là nền tảng cần thiết và quan trọng cho một hệ thống tư pháp như vậy. Đây không phải là quan điểm của riêng tôi mà là lập luận của luật sư Nam Quỳnh trong bài cuối cùng cuả loạt bài "Nguyễn Ái Quốc - Thoát nạn ở Hong Kong" trên luatkhoa.net. Loạt bài 14 kỳ rất dài nhưng xứng đáng đọc từng chữ.
http://luatkhoa.org/2015/07/ky-14-va-het-tu-phap-doc-lap-de-luoi-dao-khong-giai-quyet-moi-thu/
http://luatkhoa.org/2015/07/ky-14-va-het-tu-phap-doc-lap-de-luoi-dao-khong-giai-quyet-moi-thu
Tất nhiên một hệ thống tư pháp độc lập/đứng ngoài chính trị luôn cần thiết chứ không chỉ một tòa án hiến pháp, nhưng tòa hiến pháp là nền tảng cần thiết và quan trọng cho một hệ thống tư pháp như vậy. Đây không phải là quan điểm của riêng tôi mà là lập luận của luật sư Nam Quỳnh trong bài cuối cùng cuả loạt bài "Nguyễn Ái Quốc - Thoát nạn ở Hong Kong" trên luatkhoa.net. Loạt bài 14 kỳ rất dài nhưng xứng đáng đọc từng chữ.
http://luatkhoa.org/2015/07/ky-14-va-het-tu-phap-doc-lap-de-luoi-dao-khong-giai-quyet-moi-thu/
http://luatkhoa.org/2015/07/ky-14-va-het-tu-phap-doc-lap-de-luoi-dao-khong-giai-quyet-moi-thu
Saturday, July 11, 2015
Viết thêm về phán quyết của SCOTUS trong vụ King v.
Viết thêm về phán quyết của SCOTUS trong vụ King v. Burwell ngày 25/6/2015. Dù phán quyết về hôn nhân đồng giới một ngày sau đó ồn ào hơn trên báo chí/dư luận Mỹ và thế giới, vụ King v. Burwell liên quan đến Obamacare sẽ có ảnh hưởng lớn và lâu dài hơn đến kinh tế và xã hội Mỹ. Đây là lần thứ hai SCOTUS "cứu" Obamacare khi phe Cộng hòa tìm cách lật đổ nó thông qua con đường pháp luật.
Để hiểu về vụ King v. Burwell cần phải nhắc lại 3 trụ cột của Obamacare, thiếu dù chỉ một trong ba Obamacare sẽ thất bại (thực ra để hiểu rõ về vấn đề này cần phải viết một bài dài về economics of healthcare mà tôi chưa có điều kiện):
- Community rating: nghĩa là các hãng bảo hiểm chỉ được tính phí bảo hiểm y tế dựa vào tình hình sức khỏe của một cộng đồng nói chung chứ không được dựa vào sức khỏe của từng khách hàng riêng biệt. Như vậy một người khỏe mạnh hay một người đang bị ung thư trong một cộng đồng đều trả một mức phí bảo hiểm như nhau cho một sản phẩm bảo hiểm cùng loại.
- Individual mandate: mọi công dân đều có nghĩa vụ mua bảo hiểm y tế, ai không mua sẽ bị phạt.
- Low income subsidy: những ai có thu nhập thấp sẽ được chính phủ trợ cấp tiền mua bảo hiểm y tế.
Năm 2012 phe Cộng hòa đã tấn công trụ cột thứ hai, kiện về tính hợp hiến của individual mandate nhưng SCOTUS phán quyết có lợi cho Obamacare. Lần này họ tấn công vào trụ cột thứ 3 dựa vào một sai sót văn bản trong ACA (tên chính thức của đạo luật Obamacare). Theo điều khoản 36B của đạo luật này những người mua bảo hiểm y tế có thể sẽ nhận được trợ cấp thông qua tax credit (tiền hoàn thuế) nếu họ mua bảo hiểm trên một "chợ bảo hiểm của bang" ("Exchange established by the State"). Vấn đề là trong số 50 bang của Mỹ chỉ có 16 bang tự xây dựng một chợ bảo hiểm (online exchange), 34 bang còn lại mà phần đông là các bang do phe Cộng hòa nắm, không có exchange nên người dân phải mua bảo hiểm trong một exchange do chính phủ liên bang thành lập.
Phe Cộng hòa lập luận rằng theo đúng câu chữ của điều khoản 36B chỉ những ai mua bảo hiểm trên exchange của bang mới được nhận trợ cấp thông qua tax credit, những người mua qua exchange của liên bang không được. Nếu như vậy sẽ có khoảng 5 triệu người có thu nhập thấp đã mua bảo hiểm từ exchange của liên bang sẽ mất trợ cấp và nhiều khả năng sẽ mất luôn bảo hiểm. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng "death spiral" cho Obamacare, nghĩa là các hãng bảo hiểm bị tình trạng adverse selection (chỉ những người bị ốm nặng mới mua bảo hiểm) nên năm sau sẽ tăng phí bảo hiểm lên, tiếp tục làm tình trạng adverse selection trầm trọng hơn dẫn đến Obamacare phá sản sau vài năm.
Mặc dù câu chữ ghi rành rành trong luật như phe Cộng hòa thưa kiện, 6/9 thẩm phán của SCOTUS đã gạt bỏ lập luận này. Họ cho rằng một bộ luật phải hiểu trên tinh thần của nó chứ không phải trên từng câu chữ. Việc viết chi tiết về yêu cầu phải mua bảo hiểm từ các chợ do bang thiết lập chỉ là thiếu sót của người soạn luật chứ không phải là ý định của ACA. Do đó bất kỳ ai mua bảo hiểm y tế, dù trên chợ của bang hay của liên bang, đều có quyền được nhận trợ cấp. Âm mưu sử dụng "death spiral" để xóa sổ Obamacare của phe Cộng hòa thất bại.
Dù King v. Burwell là một vụ kiện hoàn toàn mang tính chất chính trị (partisan), phán quyết của SCOTUS lần này là một ví dụ điển hình của việc một sai sót của nhánh lập pháp được tòa án hiến pháp sửa lại.
https://en.wikipedia.org/wiki/King_v._Burwell
https://en.wikipedia.org/wiki/King_v._Burwell
Để hiểu về vụ King v. Burwell cần phải nhắc lại 3 trụ cột của Obamacare, thiếu dù chỉ một trong ba Obamacare sẽ thất bại (thực ra để hiểu rõ về vấn đề này cần phải viết một bài dài về economics of healthcare mà tôi chưa có điều kiện):
- Community rating: nghĩa là các hãng bảo hiểm chỉ được tính phí bảo hiểm y tế dựa vào tình hình sức khỏe của một cộng đồng nói chung chứ không được dựa vào sức khỏe của từng khách hàng riêng biệt. Như vậy một người khỏe mạnh hay một người đang bị ung thư trong một cộng đồng đều trả một mức phí bảo hiểm như nhau cho một sản phẩm bảo hiểm cùng loại.
- Individual mandate: mọi công dân đều có nghĩa vụ mua bảo hiểm y tế, ai không mua sẽ bị phạt.
- Low income subsidy: những ai có thu nhập thấp sẽ được chính phủ trợ cấp tiền mua bảo hiểm y tế.
Năm 2012 phe Cộng hòa đã tấn công trụ cột thứ hai, kiện về tính hợp hiến của individual mandate nhưng SCOTUS phán quyết có lợi cho Obamacare. Lần này họ tấn công vào trụ cột thứ 3 dựa vào một sai sót văn bản trong ACA (tên chính thức của đạo luật Obamacare). Theo điều khoản 36B của đạo luật này những người mua bảo hiểm y tế có thể sẽ nhận được trợ cấp thông qua tax credit (tiền hoàn thuế) nếu họ mua bảo hiểm trên một "chợ bảo hiểm của bang" ("Exchange established by the State"). Vấn đề là trong số 50 bang của Mỹ chỉ có 16 bang tự xây dựng một chợ bảo hiểm (online exchange), 34 bang còn lại mà phần đông là các bang do phe Cộng hòa nắm, không có exchange nên người dân phải mua bảo hiểm trong một exchange do chính phủ liên bang thành lập.
Phe Cộng hòa lập luận rằng theo đúng câu chữ của điều khoản 36B chỉ những ai mua bảo hiểm trên exchange của bang mới được nhận trợ cấp thông qua tax credit, những người mua qua exchange của liên bang không được. Nếu như vậy sẽ có khoảng 5 triệu người có thu nhập thấp đã mua bảo hiểm từ exchange của liên bang sẽ mất trợ cấp và nhiều khả năng sẽ mất luôn bảo hiểm. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng "death spiral" cho Obamacare, nghĩa là các hãng bảo hiểm bị tình trạng adverse selection (chỉ những người bị ốm nặng mới mua bảo hiểm) nên năm sau sẽ tăng phí bảo hiểm lên, tiếp tục làm tình trạng adverse selection trầm trọng hơn dẫn đến Obamacare phá sản sau vài năm.
Mặc dù câu chữ ghi rành rành trong luật như phe Cộng hòa thưa kiện, 6/9 thẩm phán của SCOTUS đã gạt bỏ lập luận này. Họ cho rằng một bộ luật phải hiểu trên tinh thần của nó chứ không phải trên từng câu chữ. Việc viết chi tiết về yêu cầu phải mua bảo hiểm từ các chợ do bang thiết lập chỉ là thiếu sót của người soạn luật chứ không phải là ý định của ACA. Do đó bất kỳ ai mua bảo hiểm y tế, dù trên chợ của bang hay của liên bang, đều có quyền được nhận trợ cấp. Âm mưu sử dụng "death spiral" để xóa sổ Obamacare của phe Cộng hòa thất bại.
Dù King v. Burwell là một vụ kiện hoàn toàn mang tính chất chính trị (partisan), phán quyết của SCOTUS lần này là một ví dụ điển hình của việc một sai sót của nhánh lập pháp được tòa án hiến pháp sửa lại.
https://en.wikipedia.org/wiki/King_v._Burwell
https://en.wikipedia.org/wiki/King_v._Burwell
Thursday, July 9, 2015
Cách đây hơn một tuần báo chí và cộng đồng mạng rầm rộ đưa tin phán quyết của Tòa án Tối cao Mỹ (SCOTUS) về hôn nhân...
Cách đây hơn một tuần báo chí và cộng đồng mạng rầm rộ đưa tin phán quyết của Tòa án Tối cao Mỹ (SCOTUS) về hôn nhân đồng giới. Một số báo chạy tít "Mỹ chính thức công nhận hôn nhân đồng giới" hay "Mỹ cho phép hôn nhân đồng tính trên cả nước". Những title như vậy có thể chấp nhận trong ngôn ngữ bình dân, nhưng với những ai quan tâm đến luật pháp (Mỹ) viết như thế không hoàn toàn chính xác. Dưới đây tôi sẽ lý giải kỹ hơn tại sao và nhân tiện bàn thêm về một vấn đề rất quan trọng trong hệ thống nhà nước mà một số trí thức VN đã từng nhắc đến.
Trước hết cần lưu ý Mỹ có thể chế nhà nước liên bang nên khi viết "Mỹ cho phép" hay "Mỹ công nhận" có hàm ý ở mức liên bang chứ không phải tiểu bang. Trên thực tế cho đến vụ xử này 38 bang đã công nhận hôn nhân đồng giới nên phán quyết của SCOTUS ngày 26/6 không thay đổi gì luật lệ ở những bang đó liên quan đến hôn nhân đồng giới. Nhưng ở tầm mức liên bang cũng không đúng vì 2 năm trước (26/6/2013) SCOTUS đã từng có một phán quyết (vụ United States v. Windsor) buộc chính phủ liên bang phải công nhận hôn nhân đồng giới (chính xác hơn SCOTUS đã bác bỏ một điều luật của liên bang trước đó định nghĩa hôn nhân là quan hệ giữa một người phụ nữ và một người đàn ông).
Phán quyết của SCOTUS ngày 26/6/2015 (trong vụ Obergefell v. Hodges) không phải "cho phép" hay "công nhận" hôn nhân đồng giới mà tuyên bố 12 bang còn lại khi không công nhận/cấm hôn nhân đồng giới là trái với Hiến pháp Mỹ, cụ thể là trái với Tu chính án thứ Tư (liên quan đến quyền bình đẳng). Như vậy phán quyết này gián tiếp buộc 12 bang còn lại phải công nhận hôn nhân đồng giới trên cơ sở nếu làm ngược lại sẽ bị coi là vi hiến.
Đến đây cần nhắc lại một khác biệt rất quan trọng giữa Tòa án Tối cao Mỹ (Supreme Court of the United States - SCOTUS) với Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam. Mặc dù có tên gọi (trong tiếng Việt) giống nhau, bản chất của hai tòa án này rất khác nhau. TANDTC của VN là tòa phán xử lại (phúc thẩm/giám đốc thẩm) cao nhất các vụ kiện tụng đã được xử ở tòa cấp dưới, thuật ngữ tiếng Anh là (highest) Court of Appeals. Trong khi đó SCOTUS của Mỹ (hay High Court of Australia) về bản chất là tòa án hiến pháp (Constitutional Court). Đa số các vụ xử ở đây, dù cũng có thể xuất phát từ đơn kháng án một phán quyết của tòa cấp dưới, đều liên quan đến tính hợp hiến/hợp pháp của một hay nhiều bộ luật như trong vụ hôn nhân đồng giới vừa rồi hoặc vụ Obamacare ngay trước đó (King v. Burwell ngày 25/6/2015).
Trước đây một số trí thức VN (và cả một số quan chức/chính trị gia) đã từng lên tiếng kêu gọi thành lập một tòa án hiến pháp. Đây là một cơ quan vô cùng quan trọng trong hệ thống nhà nước tam quyền phân lập. Mục đích chính của một tòa hiến pháp là giúp cho người dân/doanh nghiệp/tổ chức có thể kiện tính hợp pháp/hợp hiến các quyết định/chính sách của chính phủ và thậm chí cả các bộ luật đã được quốc hội thông qua. Không phải lúc nào các cơ quan lập pháp và hành pháp cũng đúng. Ngay cả khi đất nước có một nền báo chí tự do vẫn cần có một cơ chế buộc các cơ quan quyền lực nhà nước phải sửa sai. Điều này sẽ củng cố thêm nguyên tắc thượng tôn pháp luật mà một xã hội văn minh phải có.
Hi vọng những ai đã từng hoan hỉ với quyết định của SCOTUS, thậm chí treo rainbow flag lên avatar, sẽ ủng hộ dự án thành lập một tòa hiến pháp cho VN trong tương lai.
https://en.wikipedia.org/wiki/Obergefell_v._Hodges
https://en.wikipedia.org/wiki/Obergefell_v._Hodges
Trước hết cần lưu ý Mỹ có thể chế nhà nước liên bang nên khi viết "Mỹ cho phép" hay "Mỹ công nhận" có hàm ý ở mức liên bang chứ không phải tiểu bang. Trên thực tế cho đến vụ xử này 38 bang đã công nhận hôn nhân đồng giới nên phán quyết của SCOTUS ngày 26/6 không thay đổi gì luật lệ ở những bang đó liên quan đến hôn nhân đồng giới. Nhưng ở tầm mức liên bang cũng không đúng vì 2 năm trước (26/6/2013) SCOTUS đã từng có một phán quyết (vụ United States v. Windsor) buộc chính phủ liên bang phải công nhận hôn nhân đồng giới (chính xác hơn SCOTUS đã bác bỏ một điều luật của liên bang trước đó định nghĩa hôn nhân là quan hệ giữa một người phụ nữ và một người đàn ông).
Phán quyết của SCOTUS ngày 26/6/2015 (trong vụ Obergefell v. Hodges) không phải "cho phép" hay "công nhận" hôn nhân đồng giới mà tuyên bố 12 bang còn lại khi không công nhận/cấm hôn nhân đồng giới là trái với Hiến pháp Mỹ, cụ thể là trái với Tu chính án thứ Tư (liên quan đến quyền bình đẳng). Như vậy phán quyết này gián tiếp buộc 12 bang còn lại phải công nhận hôn nhân đồng giới trên cơ sở nếu làm ngược lại sẽ bị coi là vi hiến.
Đến đây cần nhắc lại một khác biệt rất quan trọng giữa Tòa án Tối cao Mỹ (Supreme Court of the United States - SCOTUS) với Tòa án Nhân dân Tối cao Việt Nam. Mặc dù có tên gọi (trong tiếng Việt) giống nhau, bản chất của hai tòa án này rất khác nhau. TANDTC của VN là tòa phán xử lại (phúc thẩm/giám đốc thẩm) cao nhất các vụ kiện tụng đã được xử ở tòa cấp dưới, thuật ngữ tiếng Anh là (highest) Court of Appeals. Trong khi đó SCOTUS của Mỹ (hay High Court of Australia) về bản chất là tòa án hiến pháp (Constitutional Court). Đa số các vụ xử ở đây, dù cũng có thể xuất phát từ đơn kháng án một phán quyết của tòa cấp dưới, đều liên quan đến tính hợp hiến/hợp pháp của một hay nhiều bộ luật như trong vụ hôn nhân đồng giới vừa rồi hoặc vụ Obamacare ngay trước đó (King v. Burwell ngày 25/6/2015).
Trước đây một số trí thức VN (và cả một số quan chức/chính trị gia) đã từng lên tiếng kêu gọi thành lập một tòa án hiến pháp. Đây là một cơ quan vô cùng quan trọng trong hệ thống nhà nước tam quyền phân lập. Mục đích chính của một tòa hiến pháp là giúp cho người dân/doanh nghiệp/tổ chức có thể kiện tính hợp pháp/hợp hiến các quyết định/chính sách của chính phủ và thậm chí cả các bộ luật đã được quốc hội thông qua. Không phải lúc nào các cơ quan lập pháp và hành pháp cũng đúng. Ngay cả khi đất nước có một nền báo chí tự do vẫn cần có một cơ chế buộc các cơ quan quyền lực nhà nước phải sửa sai. Điều này sẽ củng cố thêm nguyên tắc thượng tôn pháp luật mà một xã hội văn minh phải có.
Hi vọng những ai đã từng hoan hỉ với quyết định của SCOTUS, thậm chí treo rainbow flag lên avatar, sẽ ủng hộ dự án thành lập một tòa hiến pháp cho VN trong tương lai.
https://en.wikipedia.org/wiki/Obergefell_v._Hodges
https://en.wikipedia.org/wiki/Obergefell_v._Hodges
Saturday, July 4, 2015
Nhân tìm hiểu về IMF tôi đọc được một bài nghiên cứu của Daniel Erikson có một đoạn khá chi tiết về lịch sử quan hệ...
Originally shared by Giang Le
Nhân tìm hiểu về IMF tôi đọc được một bài nghiên cứu của Daniel Erikson có một đoạn khá chi tiết về lịch sử quan hệ giữa tổ chức này với VN. Dù hầu hết các thông tin không mới, đọc lại lịch sử làm tôi chợt nhớ đến hội nghị Thành Đô và nảy ra một số suy nghĩ về sự kiện này. Viết ra đây đầy rủi ro sẽ bị chụp mũ là ... DLV, nhưng thôi cứ tuân thủ nguyên tắc freedom of expression.
Nhờ hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Bên Thắng cuộc của nhà báo Huy Đức, sự kiện hội nghị Thành đô (HNTĐ) tháng 9/1990 đã không còn là bí mật với đa số giới trí thức VN. Cho đến nay có lẽ đa số mọi người (trong đó có tôi) cho rằng HNTĐ là một sai lầm của phía VN khi đã quá ngây thơ/mù quáng tin vào ĐCS TQ. Hậu quả là VN đã phải nhượng bộ rất nhiều về vấn đề Campuchia để nối lại quan hệ với TQ nhưng cuối cùng vẫn bị TQ lừa. Kể từ đó VN từ chỗ đối đầu trở thành lệ thuộc vào TQ, thậm chí bị "Bắc thuộc" trở lại.
Đọc Erikson (hoặc đọc lại TQC+HĐ) có thể thấy hai sự kiện sau. Giai đoạn 1976-1978 VN đã "suýt nữa" bình thường hoá quan hệ với Mỹ nếu lúc đầu không quá cứng rắn đòi 3.2 tỷ USD bồi thường chiến tranh. Chắc chắn lãnh đạo VN dù kiêu ngạo đến đâu sau năm 1975 cũng hối tiếc đã để hụt cơ hội đó, họ hiểu rằng thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ để tránh bị cấm vận là một điều vô cùng quan trọng. Đến năm 1989 việc bình thường hoá quan hệ với TQ còn quan trọng hơn khi VN đang ở bước đường cùng, bởi vậy họ sẵn sàng chấp nhận trả giá cao để không bị vuột mất cơ hội một lần nữa, bài học năm 1978 còn rất mới.
Sự kiện thứ hai là tháng 9/1989 Mỹ (và Nhật) ngăn cản VN chính thức quay lại với IMF khi không đồng ý để VN trả khoản nợ 130 triệu USD quá hạn với IMF (bằng bridging loan của Pháp). Cho đến năm 1989 VN bị phương Tây tẩy chay, và tất nhiên không tiếp cân được với IMF/WB/ADB chứ đừng nói gì ODA/FDI, vì đang chiếm đóng Campuchia. Những tưởng việc rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia trong năm 1989 làm hài lòng phương Tây, nhưng nói theo lời Daniel Erikson VN đã cay đắng nhận ra rằng "the goalposts had moved". Rút quân chưa đủ, Mỹ còn đòi VN phải dàn xếp một thoả thuận chính trị ổn định cho Campuchia. Điều này chỉ có thể thực hiện được với sự thoả thuận của TQ, kẻ đang đứng đằng sau cả Pol Pot lẫn Sihanouk.
Như vậy không kể tư tưởng bảo thủ/ngây thơ muốn bảo vệ CNCS như TQC/HĐ đã phân tích, VN bước vào HNTĐ với tâm thế phải cầu cạnh TQ để đạt được giải pháp chính trị cho Campuchia bằng bất cứ giá nào và tâm lý không được đánh mất cơ hội một lần nữa. Cái giá phải trả ít là "thủ cấp của Nguyễn Cơ Thạch", nhiều là một thời kỳ "Bắc thuộc" mới. Nhưng VN đạt được mục đích đưa ra giải pháp chính trị cho Campuchia mà phương Tây chấp nhận, sau đó bình thường hoá quan hệ với TQ và Mỹ 5 năm sau.
Nếu năm 1946 Harry Truman đẩy Hồ Chí Minh về phía CS, năm 1978 Jimmy Carter đẩy Lê Duẩn về phía LX, năm 1989 George HW Bush đã góp phần đẩy Nguyễn Văn Linh/Đỗ Mười về phía TQ. Nước Mỹ "nặng nợ" với dân tộc Việt lắm!
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
Nhân tìm hiểu về IMF tôi đọc được một bài nghiên cứu của Daniel Erikson có một đoạn khá chi tiết về lịch sử quan hệ giữa tổ chức này với VN. Dù hầu hết các thông tin không mới, đọc lại lịch sử làm tôi chợt nhớ đến hội nghị Thành Đô và nảy ra một số suy nghĩ về sự kiện này. Viết ra đây đầy rủi ro sẽ bị chụp mũ là ... DLV, nhưng thôi cứ tuân thủ nguyên tắc freedom of expression.
Nhờ hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Bên Thắng cuộc của nhà báo Huy Đức, sự kiện hội nghị Thành đô (HNTĐ) tháng 9/1990 đã không còn là bí mật với đa số giới trí thức VN. Cho đến nay có lẽ đa số mọi người (trong đó có tôi) cho rằng HNTĐ là một sai lầm của phía VN khi đã quá ngây thơ/mù quáng tin vào ĐCS TQ. Hậu quả là VN đã phải nhượng bộ rất nhiều về vấn đề Campuchia để nối lại quan hệ với TQ nhưng cuối cùng vẫn bị TQ lừa. Kể từ đó VN từ chỗ đối đầu trở thành lệ thuộc vào TQ, thậm chí bị "Bắc thuộc" trở lại.
Đọc Erikson (hoặc đọc lại TQC+HĐ) có thể thấy hai sự kiện sau. Giai đoạn 1976-1978 VN đã "suýt nữa" bình thường hoá quan hệ với Mỹ nếu lúc đầu không quá cứng rắn đòi 3.2 tỷ USD bồi thường chiến tranh. Chắc chắn lãnh đạo VN dù kiêu ngạo đến đâu sau năm 1975 cũng hối tiếc đã để hụt cơ hội đó, họ hiểu rằng thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ để tránh bị cấm vận là một điều vô cùng quan trọng. Đến năm 1989 việc bình thường hoá quan hệ với TQ còn quan trọng hơn khi VN đang ở bước đường cùng, bởi vậy họ sẵn sàng chấp nhận trả giá cao để không bị vuột mất cơ hội một lần nữa, bài học năm 1978 còn rất mới.
Sự kiện thứ hai là tháng 9/1989 Mỹ (và Nhật) ngăn cản VN chính thức quay lại với IMF khi không đồng ý để VN trả khoản nợ 130 triệu USD quá hạn với IMF (bằng bridging loan của Pháp). Cho đến năm 1989 VN bị phương Tây tẩy chay, và tất nhiên không tiếp cân được với IMF/WB/ADB chứ đừng nói gì ODA/FDI, vì đang chiếm đóng Campuchia. Những tưởng việc rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia trong năm 1989 làm hài lòng phương Tây, nhưng nói theo lời Daniel Erikson VN đã cay đắng nhận ra rằng "the goalposts had moved". Rút quân chưa đủ, Mỹ còn đòi VN phải dàn xếp một thoả thuận chính trị ổn định cho Campuchia. Điều này chỉ có thể thực hiện được với sự thoả thuận của TQ, kẻ đang đứng đằng sau cả Pol Pot lẫn Sihanouk.
Như vậy không kể tư tưởng bảo thủ/ngây thơ muốn bảo vệ CNCS như TQC/HĐ đã phân tích, VN bước vào HNTĐ với tâm thế phải cầu cạnh TQ để đạt được giải pháp chính trị cho Campuchia bằng bất cứ giá nào và tâm lý không được đánh mất cơ hội một lần nữa. Cái giá phải trả ít là "thủ cấp của Nguyễn Cơ Thạch", nhiều là một thời kỳ "Bắc thuộc" mới. Nhưng VN đạt được mục đích đưa ra giải pháp chính trị cho Campuchia mà phương Tây chấp nhận, sau đó bình thường hoá quan hệ với TQ và Mỹ 5 năm sau.
Nếu năm 1946 Harry Truman đẩy Hồ Chí Minh về phía CS, năm 1978 Jimmy Carter đẩy Lê Duẩn về phía LX, năm 1989 George HW Bush đã góp phần đẩy Nguyễn Văn Linh/Đỗ Mười về phía TQ. Nước Mỹ "nặng nợ" với dân tộc Việt lắm!
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
Nhân tìm hiểu về IMF tôi đọc được một bài nghiên cứu của Daniel Erikson có một đoạn khá chi tiết về lịch sử quan hệ...
Nhân tìm hiểu về IMF tôi đọc được một bài nghiên cứu của Daniel Erikson có một đoạn khá chi tiết về lịch sử quan hệ giữa tổ chức này với VN. Dù hầu hết các thông tin không mới, đọc lại lịch sử làm tôi chợt nhớ đến hội nghị Thành Đô và nảy ra một số suy nghĩ về sự kiện này. Viết ra đây đầy rủi ro sẽ bị chụp mũ là ... DLV, nhưng thôi cứ tuân thủ nguyên tắc freedom of expression.
Nhờ hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Bên Thắng cuộc của nhà báo Huy Đức, sự kiện hội nghị Thành đô (HNTĐ) tháng 9/1990 đã không còn là bí mật với đa số giới trí thức VN. Cho đến nay có lẽ đa số mọi người (trong đó có tôi) cho rằng HNTĐ là một sai lầm của phía VN khi đã quá ngây thơ/mù quáng tin vào ĐCS TQ. Hậu quả là VN đã phải nhượng bộ rất nhiều về vấn đề Campuchia để nối lại quan hệ với TQ nhưng cuối cùng vẫn bị TQ lừa. Kể từ đó VN từ chỗ đối đầu trở thành lệ thuộc vào TQ, thậm chí bị "Bắc thuộc" trở lại.
Đọc Erikson (hoặc đọc lại TQC+HĐ) có thể thấy hai sự kiện sau. Giai đoạn 1976-1978 VN đã "suýt nữa" bình thường hoá quan hệ với Mỹ nếu lúc đầu không quá cứng rắn đòi 3.2 tỷ USD bồi thường chiến tranh. Chắc chắn lãnh đạo VN dù kiêu ngạo đến đâu sau năm 1975 cũng hối tiếc đã để hụt cơ hội đó, họ hiểu rằng thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ để tránh bị cấm vận là một điều vô cùng quan trọng. Đến năm 1989 việc bình thường hoá quan hệ với TQ còn quan trọng hơn khi VN đang ở bước đường cùng, bởi vậy họ sẵn sàng chấp nhận trả giá cao để không bị vuột mất cơ hội một lần nữa, bài học năm 1978 còn rất mới.
Sự kiện thứ hai là tháng 9/1989 Mỹ (và Nhật) ngăn cản VN chính thức quay lại với IMF khi không đồng ý để VN trả khoản nợ 130 triệu USD quá hạn với IMF (bằng bridging loan của Pháp). Cho đến năm 1989 VN bị phương Tây tẩy chay, và tất nhiên không tiếp cân được với IMF/WB/ADB chứ đừng nói gì ODA/FDI, vì đang chiếm đóng Campuchia. Những tưởng việc rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia trong năm 1989 làm hài lòng phương Tây, nhưng nói theo lời Daniel Erikson VN đã cay đắng nhận ra rằng "the goalposts had moved". Rút quân chưa đủ, Mỹ còn đòi VN phải dàn xếp một thoả thuận chính trị ổn định cho Campuchia. Điều này chỉ có thể thực hiện được với sự thoả thuận của TQ, kẻ đang đứng đằng sau cả Pol Pot lẫn Sihanouk.
Như vậy không kể tư tưởng bảo thủ/ngây thơ muốn bảo vệ CNCS như TQC/HĐ đã phân tích, VN bước vào HNTĐ với tâm thế phải cầu cạnh TQ để đạt được giải pháp chính trị cho Campuchia bằng bất cứ giá nào và tâm lý không được đánh mất cơ hội một lần nữa. Cái giá phải trả ít là "thủ cấp của Nguyễn Cơ Thạch", nhiều là một thời kỳ "Bắc thuộc" mới. Nhưng VN đạt được mục đích đưa ra giải pháp chính trị cho Campuchia mà phương Tây chấp nhận, sau đó bình thường hoá quan hệ với TQ và Mỹ 5 năm sau.
Nếu năm 1946 Harry Truman đẩy Hồ Chí Minh về phía CS, năm 1978 Jimmy Carter đẩy Lê Duẩn về phía LX, năm 1989 George HW Bush đã góp phần đẩy Nguyễn Văn Linh/Đỗ Mười về phía TQ. Nước Mỹ "nặng nợ" với dân tộc Việt lắm!
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
Nhờ hồi ký Hồi ức và Suy nghĩ của Thứ trưởng Trần Quang Cơ và Bên Thắng cuộc của nhà báo Huy Đức, sự kiện hội nghị Thành đô (HNTĐ) tháng 9/1990 đã không còn là bí mật với đa số giới trí thức VN. Cho đến nay có lẽ đa số mọi người (trong đó có tôi) cho rằng HNTĐ là một sai lầm của phía VN khi đã quá ngây thơ/mù quáng tin vào ĐCS TQ. Hậu quả là VN đã phải nhượng bộ rất nhiều về vấn đề Campuchia để nối lại quan hệ với TQ nhưng cuối cùng vẫn bị TQ lừa. Kể từ đó VN từ chỗ đối đầu trở thành lệ thuộc vào TQ, thậm chí bị "Bắc thuộc" trở lại.
Đọc Erikson (hoặc đọc lại TQC+HĐ) có thể thấy hai sự kiện sau. Giai đoạn 1976-1978 VN đã "suýt nữa" bình thường hoá quan hệ với Mỹ nếu lúc đầu không quá cứng rắn đòi 3.2 tỷ USD bồi thường chiến tranh. Chắc chắn lãnh đạo VN dù kiêu ngạo đến đâu sau năm 1975 cũng hối tiếc đã để hụt cơ hội đó, họ hiểu rằng thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ để tránh bị cấm vận là một điều vô cùng quan trọng. Đến năm 1989 việc bình thường hoá quan hệ với TQ còn quan trọng hơn khi VN đang ở bước đường cùng, bởi vậy họ sẵn sàng chấp nhận trả giá cao để không bị vuột mất cơ hội một lần nữa, bài học năm 1978 còn rất mới.
Sự kiện thứ hai là tháng 9/1989 Mỹ (và Nhật) ngăn cản VN chính thức quay lại với IMF khi không đồng ý để VN trả khoản nợ 130 triệu USD quá hạn với IMF (bằng bridging loan của Pháp). Cho đến năm 1989 VN bị phương Tây tẩy chay, và tất nhiên không tiếp cân được với IMF/WB/ADB chứ đừng nói gì ODA/FDI, vì đang chiếm đóng Campuchia. Những tưởng việc rút quân hoàn toàn khỏi Campuchia trong năm 1989 làm hài lòng phương Tây, nhưng nói theo lời Daniel Erikson VN đã cay đắng nhận ra rằng "the goalposts had moved". Rút quân chưa đủ, Mỹ còn đòi VN phải dàn xếp một thoả thuận chính trị ổn định cho Campuchia. Điều này chỉ có thể thực hiện được với sự thoả thuận của TQ, kẻ đang đứng đằng sau cả Pol Pot lẫn Sihanouk.
Như vậy không kể tư tưởng bảo thủ/ngây thơ muốn bảo vệ CNCS như TQC/HĐ đã phân tích, VN bước vào HNTĐ với tâm thế phải cầu cạnh TQ để đạt được giải pháp chính trị cho Campuchia bằng bất cứ giá nào và tâm lý không được đánh mất cơ hội một lần nữa. Cái giá phải trả ít là "thủ cấp của Nguyễn Cơ Thạch", nhiều là một thời kỳ "Bắc thuộc" mới. Nhưng VN đạt được mục đích đưa ra giải pháp chính trị cho Campuchia mà phương Tây chấp nhận, sau đó bình thường hoá quan hệ với TQ và Mỹ 5 năm sau.
Nếu năm 1946 Harry Truman đẩy Hồ Chí Minh về phía CS, năm 1978 Jimmy Carter đẩy Lê Duẩn về phía LX, năm 1989 George HW Bush đã góp phần đẩy Nguyễn Văn Linh/Đỗ Mười về phía TQ. Nước Mỹ "nặng nợ" với dân tộc Việt lắm!
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
http://www.ascecuba.org/c/wp-content/uploads/2014/09/v13-erikson.pdf
Wednesday, July 1, 2015
Báo chí VN sử dụng thuật ngữ "vỡ nợ" cho Hy Lạp (dịch từ "default" của báo chí nước ngoài) thực ra không chính xác.
Báo chí VN sử dụng thuật ngữ "vỡ nợ" cho Hy Lạp (dịch từ "default" của báo chí nước ngoài) thực ra không chính xác. Cho đến giờ này IMF coi Hy Lạp có một khoản nợ "in arrears", nghĩa là "chậm trả nợ" chứ không phải "vỡ nợ". Khác với vay thương mại, vay của IMF có thể "in arrears" rất lâu vì tổ chức này không bao giờ kiện một quốc gia ra tòa đòi nợ cho nên về mặt lý thuyết quốc gia đó sẽ không bị "default".
VN đã từng có một khoản nợ hơn 100 triệu USD "in arrears" với IMF gần 10 năm (nợ của VNCH chuyển giao cho CHXHCNVN sau năm 1975), chỉ được giải quyết vào đầu những năm 1990s (http://www.imf.org/external/pubs/ft/finop/2014/pdf/ch6.pdf).
http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/247911/hy-lap-chinh-thuc-vo-no-truoc-imf.html
http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/247911/hy-lap-chinh-thuc-vo-no-truoc-imf.html
VN đã từng có một khoản nợ hơn 100 triệu USD "in arrears" với IMF gần 10 năm (nợ của VNCH chuyển giao cho CHXHCNVN sau năm 1975), chỉ được giải quyết vào đầu những năm 1990s (http://www.imf.org/external/pubs/ft/finop/2014/pdf/ch6.pdf).
http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/247911/hy-lap-chinh-thuc-vo-no-truoc-imf.html
http://vietnamnet.vn/vn/quoc-te/247911/hy-lap-chinh-thuc-vo-no-truoc-imf.html
Subscribe to:
Comments (Atom)
Bitcoin II
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html
-
Tôi không phản đối việc tăng giá điện, miễn là nó được quyết định bởi cung cầu và thị trường điện có cạnh tranh. Nhưng phát biểu này của thố...
-
Đọc "Ái tình và Cam ranh" của 5Xu chợt nhớ đến quốc gia này ở châu Phi. Cho dù Cam Ranh có mở cửa cho tàu của TQ vào, Djubouti mới...
-
Dành cho các bạn sinh viên kinh tế: một khoá học econometrics ngắn về network models. http://economistsview.typepad.com/economistsview/2014/...