Nếu giải được puzzle này cơ quan tình báo Anh (GCHQ) có thể sẽ tuyển mộ bạn (như trong phim The imitation game) hay sẽ truy giết bạn (như Mercury rising). Nhưng cứ thử giải cái đã, chỉ còn vài tiếng thôi :-)
http://www.businessinsider.com.au/no-one-has-been-able-to-solve-this-cryptic-puzzle-by-a-british-spy-agency-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/no-one-has-been-able-to-solve-this-cryptic-puzzle-by-a-british-spy-agency-2016-1
Sunday, January 31, 2016
Người Việt ai cũng biết sự tích Mai An Tiêm, người tìm ra giống dưa hấu dưới thời Hùng Vương.
Người Việt ai cũng biết sự tích Mai An Tiêm, người tìm ra giống dưa hấu dưới thời Hùng Vương. Hôm nay tình cờ vào đọc trang wikipedia về dưa hấu mới biết giống dưa này bắt nguồn ở châu Phi và chỉ được đưa sang trồng ở Ấn độ từ thế kỷ thứ 7, TQ thế kỷ thứ 10, châu Âu cũng khoảng thời gian đó.
Như vậy nếu truyền thuyết dưa hấu của Mai An Tiêm đúng VN đã trồng giống dưa này ít nhất 7-8 thế kỷ trước Ấn độ, nơi đáng ra dưa hấu phải được trồng trước vì gần châu Phi hơn. Hơn nữa tại sao người TQ lại phải đợi đến thế kỷ thứ 10 mới biết mà trồng dưa hấu, chẳng phải trong 1000 năm bắc thuộc VN phải tiến rất nhiều sản vật cho các triều đại phương bắc mà chắc chắn có trái cây. Có thể nào truyền thuyết Mai An Tiêm không đúng?
https://en.wikipedia.org/wiki/Watermelon
https://en.wikipedia.org/wiki/Watermelon
Như vậy nếu truyền thuyết dưa hấu của Mai An Tiêm đúng VN đã trồng giống dưa này ít nhất 7-8 thế kỷ trước Ấn độ, nơi đáng ra dưa hấu phải được trồng trước vì gần châu Phi hơn. Hơn nữa tại sao người TQ lại phải đợi đến thế kỷ thứ 10 mới biết mà trồng dưa hấu, chẳng phải trong 1000 năm bắc thuộc VN phải tiến rất nhiều sản vật cho các triều đại phương bắc mà chắc chắn có trái cây. Có thể nào truyền thuyết Mai An Tiêm không đúng?
https://en.wikipedia.org/wiki/Watermelon
https://en.wikipedia.org/wiki/Watermelon
Saturday, January 30, 2016
Gần đây truyền hình TQ cho chiếu một số vụ "thú tội" của các dissidents/activists, chậm vài năm so với VN.
Gần đây truyền hình TQ cho chiếu một số vụ "thú tội" của các dissidents/activists, chậm vài năm so với VN. Tờ The Economist cho rằng chính sách này là để chứng minh sự "dominance" của Tập Cẩm Bình và "submission" của những dissidents đó (tương tự như Big Brother với những players trong gameshow).
http://www.economist.com/news/china/21689620-what-current-vogue-televised-confessions-and-apologies-says-about-xi-jinpings-china
http://www.economist.com/news/china/21689620-what-current-vogue-televised-confessions-and-apologies-says-about-xi-jinpings-china
http://www.economist.com/news/china/21689620-what-current-vogue-televised-confessions-and-apologies-says-about-xi-jinpings-china
http://www.economist.com/news/china/21689620-what-current-vogue-televised-confessions-and-apologies-says-about-xi-jinpings-china
Đương kim thủ tướng Úc Malcolm Turnbull đón tầu điện đi làm, cũng chúi mũi vào smartphone như ai :-)
Đương kim thủ tướng Úc Malcolm Turnbull đón tầu điện đi làm, cũng chúi mũi vào smartphone như ai :-)
http://www.businessinsider.com.au/malcolm-turnbull-caught-a-tram-in-melbourne-and-no-one-cared-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/malcolm-turnbull-caught-a-tram-in-melbourne-and-no-one-cared-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/malcolm-turnbull-caught-a-tram-in-melbourne-and-no-one-cared-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/malcolm-turnbull-caught-a-tram-in-melbourne-and-no-one-cared-2016-1
Wednesday, January 27, 2016
Lại nói chuyện bầu cử nhé, nhưng không phải ở cái đại hội của xứ thiên đường đâu.
Lại nói chuyện bầu cử nhé, nhưng không phải ở cái đại hội của xứ thiên đường đâu. Mấy hôm nay giới finance râm ran tin Michael Bloomberg sẽ ra ứng cử tổng thống trong cuộc bầu cử cuối năm nay. Số là đến giờ này khả năng Donald Trump sẽ giành được nomination của đảng Cộng hòa không còn là điều không thể nữa. Còn phía Dân chủ Bernie Sanders đang trên đà qua mặt Hillary Clinton.
Nếu kêt cục là Trump và Sanders sẽ đại diện cho 2 đảng lớn nhất chạy đua vào Nhà Trắng thì ai thắng cũng vậy, nước Mỹ và cả thế giới sẽ lộn tùng phèo vì những chính sách quá khích của 2 nhân vật này. Cho nên sẽ có một cuộc vận động mạnh mẽ để Bloomberg, tỷ phú của công ty chuyên cung cấp dịch vụ thông tin cho giới finance quốc tế và là cựu thị trưởng New York, ra tranh cử vì ông được cho là người có tư tưởng ôn hòa và đã có kinh nghiệm lãnh đạo.
Có điều Paul Krugman cho rằng Bloomberg không thể thắng (vì phải tranh cử dưới tư cách independent) nên nhiều khả năng sẽ chia sẻ phiếu của phe Dân chủ. Cho nên kết quả là Trump sẽ trở thành tổng thống Mỹ và sẽ thực hiện những ý tưởng điên rồ của ông ta. Ngụ ý thứ nhất của Krugman là không được để Bloomberg ra tranh cử. Ngụ ý thứ hai là đảng Dân chủ không được đề cử Sanders.
Vẫn biết Krugman viết bài này để ủng hộ Hilary, nhưng phải thừa nhận Bloomberg sẽ là một đối thủ rất nặng ký. Có lẽ điều Krugman lo lắng hơn là đảng Cộng hòa sẽ thuyết phục Bloomberg đứng ra đại diện cho họ cạnh tranh với Trump cho nomination, vị tỷ phú này đã tranh cử chức thị trưởng New York dưới danh nghĩa đảng viên đảng Cộng hòa dù trước đó ông là người của đảng Dân chủ.
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/23/how-to-make-donald-trump-president/
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/23/how-to-make-donald-trump-president
Nếu kêt cục là Trump và Sanders sẽ đại diện cho 2 đảng lớn nhất chạy đua vào Nhà Trắng thì ai thắng cũng vậy, nước Mỹ và cả thế giới sẽ lộn tùng phèo vì những chính sách quá khích của 2 nhân vật này. Cho nên sẽ có một cuộc vận động mạnh mẽ để Bloomberg, tỷ phú của công ty chuyên cung cấp dịch vụ thông tin cho giới finance quốc tế và là cựu thị trưởng New York, ra tranh cử vì ông được cho là người có tư tưởng ôn hòa và đã có kinh nghiệm lãnh đạo.
Có điều Paul Krugman cho rằng Bloomberg không thể thắng (vì phải tranh cử dưới tư cách independent) nên nhiều khả năng sẽ chia sẻ phiếu của phe Dân chủ. Cho nên kết quả là Trump sẽ trở thành tổng thống Mỹ và sẽ thực hiện những ý tưởng điên rồ của ông ta. Ngụ ý thứ nhất của Krugman là không được để Bloomberg ra tranh cử. Ngụ ý thứ hai là đảng Dân chủ không được đề cử Sanders.
Vẫn biết Krugman viết bài này để ủng hộ Hilary, nhưng phải thừa nhận Bloomberg sẽ là một đối thủ rất nặng ký. Có lẽ điều Krugman lo lắng hơn là đảng Cộng hòa sẽ thuyết phục Bloomberg đứng ra đại diện cho họ cạnh tranh với Trump cho nomination, vị tỷ phú này đã tranh cử chức thị trưởng New York dưới danh nghĩa đảng viên đảng Cộng hòa dù trước đó ông là người của đảng Dân chủ.
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/23/how-to-make-donald-trump-president/
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/23/how-to-make-donald-trump-president
Mấy đứa nhỏ nhà tôi rất thích ăn Chicken McNuggets.
Mấy đứa nhỏ nhà tôi rất thích ăn Chicken McNuggets. Hôm nay đọc bài này mới biết Ray Dalio, một trong những hedge fund manager lớn và thành công nhất thế giới, đã từng góp phần giúp McDonalds đưa ra món ăn này năm 1983.
Ở thời điểm đó Dalio tư vấn cho McDonalds và một công ty nuôi gà lớn hedge giá ngô và đậu nành (2 loại thức ăn chính cho gà) để đảm bảo giá đầu vào cho món McNuggets cố định. Nhờ đó McDonalds đã yên tâm triển khai món này trong hệ thống nhà hàng của mình, để đến hơn 30 năm sau vẫn làm tốn tiền của không biết bao nhiêu ông bố bà mẹ.
http://www.businessinsider.com.au/hedge-fund-manager-ray-dalio-and-mcdonalds-mcnuggets-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/hedge-fund-manager-ray-dalio-and-mcdonalds-mcnuggets-2016-1
Ở thời điểm đó Dalio tư vấn cho McDonalds và một công ty nuôi gà lớn hedge giá ngô và đậu nành (2 loại thức ăn chính cho gà) để đảm bảo giá đầu vào cho món McNuggets cố định. Nhờ đó McDonalds đã yên tâm triển khai món này trong hệ thống nhà hàng của mình, để đến hơn 30 năm sau vẫn làm tốn tiền của không biết bao nhiêu ông bố bà mẹ.
http://www.businessinsider.com.au/hedge-fund-manager-ray-dalio-and-mcdonalds-mcnuggets-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/hedge-fund-manager-ray-dalio-and-mcdonalds-mcnuggets-2016-1
Tuesday, January 26, 2016
Đây là tựa một bài báo chính thống trên Nhân dân Nhật báo cảnh báo trực tiếp George Soros:
Đây là tựa một bài báo chính thống trên Nhân dân Nhật báo cảnh báo trực tiếp George Soros:
"Declaring war on China’s currency? Ha ha".
Khi nào báo Nhân Dân của VN có một bài tương tự như vậy nhỉ?
http://www.businessinsider.com/china-warned-george-soros-against-war-on-the-renminbi-2016-1
http://www.businessinsider.com/china-warned-george-soros-against-war-on-the-renminbi-2016-1
"Declaring war on China’s currency? Ha ha".
Khi nào báo Nhân Dân của VN có một bài tương tự như vậy nhỉ?
http://www.businessinsider.com/china-warned-george-soros-against-war-on-the-renminbi-2016-1
http://www.businessinsider.com/china-warned-george-soros-against-war-on-the-renminbi-2016-1
Khi Ai Weiwei bị hãng Lego từ chối không bán cho một lượng lớn lego vì họ sợ chính quyền TQ, người dân Bắc Kinh đã...
Khi Ai Weiwei bị hãng Lego từ chối không bán cho một lượng lớn lego vì họ sợ chính quyền TQ, người dân Bắc Kinh đã quyên góp cho ông hàng triệu cục lego để ông thực hiện một artwork chống đối chính quyền. Hóa ra người dân TQ dũng cảm hơn tôi tưởng.
http://www.economist.com/news/china/21688428-artist-celebrates
http://www.economist.com/news/china/21688428-artist-celebrates
http://www.economist.com/news/china/21688428-artist-celebrates
http://www.economist.com/news/china/21688428-artist-celebrates
Wednesday, January 20, 2016
Cũng tình cờ là hôm qua vừa nhắc đến WTI vs Brent benchmark thì hôm nay thấy bài này trên The Economist.
Cũng tình cờ là hôm qua vừa nhắc đến WTI vs Brent benchmark thì hôm nay thấy bài này trên The Economist. Tờ tạp chí này nhận định châu Á sẽ có một benchmark riêng trong tương lai, nhiều khả năng dựa trên futures contracts ở thị trường Thượng Hải. Nhưng chắc phải sau khi đồng CNY trở thành fully convertible.
Tựa bài "Crude measure" chơi chữ dùng chữ "crude" trong "crude oil" nhưng với nghĩa "không chính xác" để nói lên các benchmark hiện tại (WTI & Brent) không phản ánh đúng tình hình thị trường ở châu Á vì crude oil là một loại hàng hóa non-fungible.
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21685485-american-oil-exports-have-boosted-wti-benchmark-now-crude-measure
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21685485-american-oil-exports-have-boosted-wti-benchmark-now-crude-measure
Tựa bài "Crude measure" chơi chữ dùng chữ "crude" trong "crude oil" nhưng với nghĩa "không chính xác" để nói lên các benchmark hiện tại (WTI & Brent) không phản ánh đúng tình hình thị trường ở châu Á vì crude oil là một loại hàng hóa non-fungible.
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21685485-american-oil-exports-have-boosted-wti-benchmark-now-crude-measure
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21685485-american-oil-exports-have-boosted-wti-benchmark-now-crude-measure
Thật tình cờ hôm qua vừa trao đổi với một giáo sư cũ ở ANU về bài viết này của Martin Rama, Đặng Phong, Đoàn Hồng...
Thật tình cờ hôm qua vừa trao đổi với một giáo sư cũ ở ANU về bài viết này của Martin Rama, Đặng Phong, Đoàn Hồng Quang, hôm nay Viet-studies đưa link bản lược dịch của Zing News. Phải nói các bạn Zing News dạo này rất năng động. ANU/Brookings đang nghiên cứu về khả năng/phương án "Đổi mới" cho Bắc Triều Tiên.
http://news.zing.vn/Doi-moi-o-Viet-Nam-Nhung-quyet-sach-kho-khan-post620557.html
http://news.zing.vn/Doi-moi-o-Viet-Nam-Nhung-quyet-sach-kho-khan-post620557.html
http://news.zing.vn/Doi-moi-o-Viet-Nam-Nhung-quyet-sach-kho-khan-post620557.html
http://news.zing.vn/Doi-moi-o-Viet-Nam-Nhung-quyet-sach-kho-khan-post620557.html
Tuesday, January 19, 2016
Trong ngành tài chính có một khái niệm rất quan trọng nhưng ít được biết đến là fungibility.
Trong ngành tài chính có một khái niệm rất quan trọng nhưng ít được biết đến là fungibility. Một loại hàng hóa (physical or financial) được coi là fungible khi nó có thể mua bán trên các thị trường khác nhau với những giá không quá khác nhau (để không tạo ra arbitrage opportunity). Ví dụ vàng là một loại hàng hóa như vậy vì giá khá đồng nhất dù mua bán ở London, Dubai hay Shanghai (trừ HN và SG). Cổ phiếu một công ty được dual-listed cũng thế.
Tuy nhiên có rất nhiều loại hàng hóa non-fungible dù thoạt nhìn chúng có vẻ rất dễ mua bán qua lại. Ví dụ đồng RMB trong nội địa TQ (CNY) và trên thị trường Hong Kong (CNH). Một lý do quan trọng dẫn đến non-fungibility là transport cost, trong nhiều trường hợp là hệ quả của đặc tính của loại hàng hoa đó. Ví dụ natural gas dù có đặc tính hóa học về cơ bản giống nhau nhưng chi phí vận chuyển (nếu không có đường ống) rất cao nên nó là non-fungible.
Một ví dụ khác tương tự là dầu thô dù báo chí và đa số người dân thường nghĩ đây là một sản phẩm đồng nhất. Nói đến giá dầu thô hầu hết mọi người đều nghĩ đến WTI, những dự báo giá dầu sẽ giảm xuống $20/thùng là nói đến giá WTI. Một loại giá khá phổ biến khác là Brent Crude Oil (các bạn có thể tham khảo thêm bài này tôi đã viết khá lâu về WTI vs Brent: http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2009/02/petrol-price.html)
Tuy nhiên vì dầu thô là một sản phẩm non-fungible nên ngoài WTI và Brent còn có rất nhiều loại giá khác. Bài báo dưới đây của Bloomberg cho biết giá dầu thô ở North Dakota đã giảm xuống mức $1.5/thùng hôm thứ Sáu vừa rồi, mà đó là giá đã tăng nhẹ từ mức âm $0.5/thùng, nghĩa là người bán phải trả $0.5 để người mua nhận 1 thùng dầu. Giá dầu ở khu vực này thấp như vậy chủ yếu vì chi phí vận chuyển cao và người mua (một nhà máy lọc dầu lớn) có monopsony power.
Một chi tiết nữa cần để ý là khi nói về giá thị trường (dầu thô hay các loại hàng hóa khác) cần phân biệt transacted price và quoted price. Loại giá thứ nhất là giá của một transaction đã thực sự xảy ra, giá thứ hai là giá mà một bên tuyên bố sẽ mua/bán nếu có ai đồng ý với giá đó. Giá dầu ở North Dakota thấp như vậy là giá offering price của bên mua. Ngoài lý do họ có monopsony power và transport cost rất cao, bản thân nhà máy lọc dầu đó đã gần hết công suất chứa dầu thô nên đưa ra mức giá thấp như vậy như là một cách từ chối khéo supplier.
Điểm cuối cùng cần lưu ý là nhiều loại giá được sử dụng làm benchmark khi tính các loại giá khác. Điều đó có nghĩa là khi một bên đưa ra giá làm benchmark họ ngầm định mức giá đó có thể không được mua/bán trên thực tế mà chỉ để làm cơ sở cho các loại derivatives liên quan đến nó (options, futures, swaps...) hay các sản phẩm cùng loại nhưng được cộng/trừ thêm spread.
http://www.bloomberg.com/news/articles/2016-01-18/the-north-dakota-crude-oil-that-s-worth-less-than-nothing
http://www.bloomberg.com/news/articles/2016-01-18/the-north-dakota-crude-oil-that-s-worth-less-than-nothing
Tuy nhiên có rất nhiều loại hàng hóa non-fungible dù thoạt nhìn chúng có vẻ rất dễ mua bán qua lại. Ví dụ đồng RMB trong nội địa TQ (CNY) và trên thị trường Hong Kong (CNH). Một lý do quan trọng dẫn đến non-fungibility là transport cost, trong nhiều trường hợp là hệ quả của đặc tính của loại hàng hoa đó. Ví dụ natural gas dù có đặc tính hóa học về cơ bản giống nhau nhưng chi phí vận chuyển (nếu không có đường ống) rất cao nên nó là non-fungible.
Một ví dụ khác tương tự là dầu thô dù báo chí và đa số người dân thường nghĩ đây là một sản phẩm đồng nhất. Nói đến giá dầu thô hầu hết mọi người đều nghĩ đến WTI, những dự báo giá dầu sẽ giảm xuống $20/thùng là nói đến giá WTI. Một loại giá khá phổ biến khác là Brent Crude Oil (các bạn có thể tham khảo thêm bài này tôi đã viết khá lâu về WTI vs Brent: http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2009/02/petrol-price.html)
Tuy nhiên vì dầu thô là một sản phẩm non-fungible nên ngoài WTI và Brent còn có rất nhiều loại giá khác. Bài báo dưới đây của Bloomberg cho biết giá dầu thô ở North Dakota đã giảm xuống mức $1.5/thùng hôm thứ Sáu vừa rồi, mà đó là giá đã tăng nhẹ từ mức âm $0.5/thùng, nghĩa là người bán phải trả $0.5 để người mua nhận 1 thùng dầu. Giá dầu ở khu vực này thấp như vậy chủ yếu vì chi phí vận chuyển cao và người mua (một nhà máy lọc dầu lớn) có monopsony power.
Một chi tiết nữa cần để ý là khi nói về giá thị trường (dầu thô hay các loại hàng hóa khác) cần phân biệt transacted price và quoted price. Loại giá thứ nhất là giá của một transaction đã thực sự xảy ra, giá thứ hai là giá mà một bên tuyên bố sẽ mua/bán nếu có ai đồng ý với giá đó. Giá dầu ở North Dakota thấp như vậy là giá offering price của bên mua. Ngoài lý do họ có monopsony power và transport cost rất cao, bản thân nhà máy lọc dầu đó đã gần hết công suất chứa dầu thô nên đưa ra mức giá thấp như vậy như là một cách từ chối khéo supplier.
Điểm cuối cùng cần lưu ý là nhiều loại giá được sử dụng làm benchmark khi tính các loại giá khác. Điều đó có nghĩa là khi một bên đưa ra giá làm benchmark họ ngầm định mức giá đó có thể không được mua/bán trên thực tế mà chỉ để làm cơ sở cho các loại derivatives liên quan đến nó (options, futures, swaps...) hay các sản phẩm cùng loại nhưng được cộng/trừ thêm spread.
http://www.bloomberg.com/news/articles/2016-01-18/the-north-dakota-crude-oil-that-s-worth-less-than-nothing
http://www.bloomberg.com/news/articles/2016-01-18/the-north-dakota-crude-oil-that-s-worth-less-than-nothing
Monday, January 18, 2016
Có một bộ phim Robin Williams đóng khá lâu rồi về câu chuyện một con robot có trí tuệ và cảm xúc dần dần biến thành...
Có một bộ phim Robin Williams đóng khá lâu rồi về câu chuyện một con robot có trí tuệ và cảm xúc dần dần biến thành người trên mọi phương diện. Nhưng nó chỉ được chính quyền công nhận là "người" sau khi chấp nhận từ bỏ khả năng bất tử. Hôm nay đọc một bài viết của Paul Krugman trong đó ông đặt ra một vấn đề tương tự: Khi nào/với điều kiện nào một con robot sẽ được công nhận là một con người tự do (free human)? Có trí tuệ/cảm xúc, có máu/thịt có đủ không hay phải không được bất tử như trong bộ phim của Robin Williams?
Rồi lại đọc được bài "Tổ quốc là gì" của nhạc sỹ Tuấn Khanh, bất chợt tự hỏi: Đến lúc những con robot như vậy được công nhận là người tự do thì khái niệm "tổ quốc" có còn không? Trong bộ phim của Robin Williams cơ quan quyền lực ra phán quyết không còn là US President hay Supreme Court nữa mà là World Congress. Nhưng thôi ở nơi mà người ta còn mải mê tranh luận thân Tầu hay thân Mỹ, bộ tứ hay bộ tam thì chuyện con người tự do còn xa vời lắm.
PS. Krugman chơi chữ rất khéo, sử dụng số 8 (eight) để viết thành chữ "liberate" song song với số 8 trong tên của con robot (BB-8).
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/16/liber8-bb-8/
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/16/liber8-bb-8/?_r=0
Rồi lại đọc được bài "Tổ quốc là gì" của nhạc sỹ Tuấn Khanh, bất chợt tự hỏi: Đến lúc những con robot như vậy được công nhận là người tự do thì khái niệm "tổ quốc" có còn không? Trong bộ phim của Robin Williams cơ quan quyền lực ra phán quyết không còn là US President hay Supreme Court nữa mà là World Congress. Nhưng thôi ở nơi mà người ta còn mải mê tranh luận thân Tầu hay thân Mỹ, bộ tứ hay bộ tam thì chuyện con người tự do còn xa vời lắm.
PS. Krugman chơi chữ rất khéo, sử dụng số 8 (eight) để viết thành chữ "liberate" song song với số 8 trong tên của con robot (BB-8).
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/16/liber8-bb-8/
http://krugman.blogs.nytimes.com/2016/01/16/liber8-bb-8/?_r=0
Sunday, January 17, 2016
Một thị trấn nhỏ ở Canada có một sáng kiến như sau nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương.
Một thị trấn nhỏ ở Canada có một sáng kiến như sau nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế địa phương. Họ cắt đôi các đồng đô la Canada và khuyến khích doanh nghiệp và cửa hàng địa phương sử dụng những nửa đồng tiền đó (gọi là demi) làm phương tiện thanh toán. Tại sao làm như vậy lại kích thích tăng trưởng kinh tế địa phương?
Họ lập luận rằng vì những tờ demi chỉ có thể tiêu thụ được ở địa phương đó nên người dân sẽ có incentive mua hàng hóa sản xuất tại chỗ (buy local). Thực tế cửa hàng Walmart trong thị trấn không chấp nhận các đồng demi có lẽ vì hệ thống Walmart không cho phép điều này. Bản thân các doanh nghiệp/shop cũng có incentive đầu tư lại vào địa phương (mua nguyên vật liệu địa phương, thuê contractor địa phương...) vì họ có thể tiêu các đồng demi thu được.
Tất nhiên các ngân hàng không nhận deposit bằng đồng demi (trừ những trường hợp hãn hữu khi 2 đồng demi là 2 nửa của cùng một tờ đô la gốc). Cho nên toàn bộ money supply của "nền kinh tế" này là cash (lượng demi tồn tại trên thị trường) nhân với money multiplier. Hay nói nôm na cung tiền phụ thuộc vào tốc độ quay vòng đồng tiền của các đồng demi hiện hữu (và tốc độ cắt đôi đồng đô la chính thức của người dân và doanh nghiệp). Nhiều người lập luận rằng tốc độ này cao hơn đồng đô la chinht thức, đồng nghĩa với multiplier lớn hơn. Do vậy nền kinh tế này có thêm "monetary stimulus" mà không phụ thuộc vào chính sách của Bank of Canada.
Hiện còn quá sớm để đánh giá hiệu quả của sáng kiến này. Nếu nó thành công đây sẽ là một bằng chứng cho thấy monetary stimulus có tác dụng thực chứ không chỉ gây ra lạm phát. Nó cũng có thể sẽ là dẫn chứng của phe ủng hộ hệ thống free banking, trong đó không còn khái niệm đồng tiền quốc gia nữa mà mỗi ngân hàng (hay địa phương) có thể phát hành đồng tiền của riêng mình để có thể tiến hành monetary stimulus riêng cho địa phương mình.
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2016/01/do-it-yourself-canadian-monetary-stimulus.html
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2016/01/do-it-yourself-canadian-monetary-stimulus.html
Họ lập luận rằng vì những tờ demi chỉ có thể tiêu thụ được ở địa phương đó nên người dân sẽ có incentive mua hàng hóa sản xuất tại chỗ (buy local). Thực tế cửa hàng Walmart trong thị trấn không chấp nhận các đồng demi có lẽ vì hệ thống Walmart không cho phép điều này. Bản thân các doanh nghiệp/shop cũng có incentive đầu tư lại vào địa phương (mua nguyên vật liệu địa phương, thuê contractor địa phương...) vì họ có thể tiêu các đồng demi thu được.
Tất nhiên các ngân hàng không nhận deposit bằng đồng demi (trừ những trường hợp hãn hữu khi 2 đồng demi là 2 nửa của cùng một tờ đô la gốc). Cho nên toàn bộ money supply của "nền kinh tế" này là cash (lượng demi tồn tại trên thị trường) nhân với money multiplier. Hay nói nôm na cung tiền phụ thuộc vào tốc độ quay vòng đồng tiền của các đồng demi hiện hữu (và tốc độ cắt đôi đồng đô la chính thức của người dân và doanh nghiệp). Nhiều người lập luận rằng tốc độ này cao hơn đồng đô la chinht thức, đồng nghĩa với multiplier lớn hơn. Do vậy nền kinh tế này có thêm "monetary stimulus" mà không phụ thuộc vào chính sách của Bank of Canada.
Hiện còn quá sớm để đánh giá hiệu quả của sáng kiến này. Nếu nó thành công đây sẽ là một bằng chứng cho thấy monetary stimulus có tác dụng thực chứ không chỉ gây ra lạm phát. Nó cũng có thể sẽ là dẫn chứng của phe ủng hộ hệ thống free banking, trong đó không còn khái niệm đồng tiền quốc gia nữa mà mỗi ngân hàng (hay địa phương) có thể phát hành đồng tiền của riêng mình để có thể tiến hành monetary stimulus riêng cho địa phương mình.
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2016/01/do-it-yourself-canadian-monetary-stimulus.html
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2016/01/do-it-yourself-canadian-monetary-stimulus.html
Friday, January 15, 2016
NPR có 2 podcasts tình cờ có chung cụm từ "70 years" trong title và cũng tình cờ nói về hiện tượng price stickiness.
NPR có 2 podcasts tình cờ có chung cụm từ "70 years" trong title và cũng tình cờ nói về hiện tượng price stickiness.
Podcast thứ nhất kể về một giai đoạn lịch sử của Coca-Cola. Trong suốt 70 năm từ năm 1886, trải qua 2 thế chiến và cuộc Đại Suy thoái, giá của một chai Coca-Cola không hề thay đổi (5 cent). Có hai lý do. Thứ nhất là sai lầm của một vị chủ tịch của Coca-Cola năm 1899 đã ký một hợp đồng vô thời hạn bán sản phẩm của mình cho một công ty đóng chai bán lẻ với giá cố định. Coca-Cola bị trói buộc vào hợp đồng này hai chục năm sau đó, đến tận năm 1921 mới thoả thuận ký lại được. Nhưng lý do thứ hai tiếp tục giữ giá của chai Coca-Cola cố định thêm 30 năm nữa. Đó là sự ra đời của máy bán nước giải khát tự động. Vì những tủ máy tự động thời đó được thiết kế chỉ nhận một đồng xu nên chi phí thay/sửa máy quá lớn so với lợi nhuận từ tăng giá bán. Thậm chí Coca-Cola đã tính đến phương án lobby chính phủ Mỹ phát hành đồng 7.5 cent để không phải thay/sửa máy tự động nhưng không thành. Giá 5 cent/chai tồn tại đến năm 1959(*).
Podcast thứ hai kể về sự oán hận của các cựu chiến binh Mỹ trong thế chiến thứ hai với Red Cross, một mối thù kéo dài 70 năm. Số là thời gian đầu thế chiến Red Cross phát bánh doughnut miễn phí cho binh lính Mỹ. Nhưng đến năm 1942 để tránh bị lính Anh ganh tỵ vì họ phải bỏ tiền túi ra mua đồ ăn, Red Cross không phát miễn phí cho lĩnh Mỹ nữa mà bán bánh với một mức giá nhỏ. Tất nhiên tỷ lệ phần trăm tăng giá dù nhỏ đến đâu so với zero cũng là vô cực nên cựu binh Mỹ đã rất căm phẫn và không quên mối thù này. Nhiều ví dụ khác cho thấy nếu mức giá ban đầu của một sản phẩm là zero (miễn phí) thì việc tăng giá vô cùng khó, hay theo ngôn ngữ kinh tế học price stickiness from zero cực kỳ lớn.
Hai câu chuyện thú vị này cho thấy vấn đề price stickiness không đơn giản như trong sách giáo khoa (menu costs) hay các mô hình kinh tế (Calvo's pricing). Cuộc sống với vô vàn ràng buộc về luật pháp, công nghệ, và cảm tính (nhiều khi rất irrational) của con người làm cho giá cả ở tầm mức micro rất sticky chứ không phải luôn luôn chạy về trạng thái equilibrium như các giáo sư kinh tế giảng trên lớp.
(*): Coca-Cola còn định đưa ra một giải pháp nữa để tăng giá bán mà không phải thay/sửa máy tự động. Theo đó sau khi máy bán 9 chai với giá 5 cent thì sẽ có một chai không chứa Coca-Cola, nghĩa là người thứ 10 sẽ phải bỏ ra 10 cent mới mua được 1 chai có nước. Hiển nhiên giải pháp này không được áp dụng vì sẽ làm người tiêu dùng nổi giận. Nhưng 70 năm sau GS George Mankiw của Harvard đưa ra một ý tưởng tương tự nhằm tạo ra negative interest rate với tiền giấy. Mankiw đề suất mỗi năm chính phủ quay số chọn ra một số từ 0 đến 9 rồi tuyên bố tất cả các đồng tiền mặt có số series kết thúc bằng số được chọn sẽ không còn giá trị. Tất nhiên ý tưởng này cũng bị báo chí/dư luận ném đá tơi bời.
http://www.npr.org/sections/money/2015/11/18/456410327/episode-416-why-the-price-of-coke-didnt-change-for-70-years
http://www.npr.org/sections/money/2012/07/13/156737801/the-cost-of-free-doughnuts-70-years-of-regret
http://www.npr.org/sections/money/2015/11/18/456410327/episode-416-why-the-price-of-coke-didnt-change-for-70-years
Podcast thứ nhất kể về một giai đoạn lịch sử của Coca-Cola. Trong suốt 70 năm từ năm 1886, trải qua 2 thế chiến và cuộc Đại Suy thoái, giá của một chai Coca-Cola không hề thay đổi (5 cent). Có hai lý do. Thứ nhất là sai lầm của một vị chủ tịch của Coca-Cola năm 1899 đã ký một hợp đồng vô thời hạn bán sản phẩm của mình cho một công ty đóng chai bán lẻ với giá cố định. Coca-Cola bị trói buộc vào hợp đồng này hai chục năm sau đó, đến tận năm 1921 mới thoả thuận ký lại được. Nhưng lý do thứ hai tiếp tục giữ giá của chai Coca-Cola cố định thêm 30 năm nữa. Đó là sự ra đời của máy bán nước giải khát tự động. Vì những tủ máy tự động thời đó được thiết kế chỉ nhận một đồng xu nên chi phí thay/sửa máy quá lớn so với lợi nhuận từ tăng giá bán. Thậm chí Coca-Cola đã tính đến phương án lobby chính phủ Mỹ phát hành đồng 7.5 cent để không phải thay/sửa máy tự động nhưng không thành. Giá 5 cent/chai tồn tại đến năm 1959(*).
Podcast thứ hai kể về sự oán hận của các cựu chiến binh Mỹ trong thế chiến thứ hai với Red Cross, một mối thù kéo dài 70 năm. Số là thời gian đầu thế chiến Red Cross phát bánh doughnut miễn phí cho binh lính Mỹ. Nhưng đến năm 1942 để tránh bị lính Anh ganh tỵ vì họ phải bỏ tiền túi ra mua đồ ăn, Red Cross không phát miễn phí cho lĩnh Mỹ nữa mà bán bánh với một mức giá nhỏ. Tất nhiên tỷ lệ phần trăm tăng giá dù nhỏ đến đâu so với zero cũng là vô cực nên cựu binh Mỹ đã rất căm phẫn và không quên mối thù này. Nhiều ví dụ khác cho thấy nếu mức giá ban đầu của một sản phẩm là zero (miễn phí) thì việc tăng giá vô cùng khó, hay theo ngôn ngữ kinh tế học price stickiness from zero cực kỳ lớn.
Hai câu chuyện thú vị này cho thấy vấn đề price stickiness không đơn giản như trong sách giáo khoa (menu costs) hay các mô hình kinh tế (Calvo's pricing). Cuộc sống với vô vàn ràng buộc về luật pháp, công nghệ, và cảm tính (nhiều khi rất irrational) của con người làm cho giá cả ở tầm mức micro rất sticky chứ không phải luôn luôn chạy về trạng thái equilibrium như các giáo sư kinh tế giảng trên lớp.
(*): Coca-Cola còn định đưa ra một giải pháp nữa để tăng giá bán mà không phải thay/sửa máy tự động. Theo đó sau khi máy bán 9 chai với giá 5 cent thì sẽ có một chai không chứa Coca-Cola, nghĩa là người thứ 10 sẽ phải bỏ ra 10 cent mới mua được 1 chai có nước. Hiển nhiên giải pháp này không được áp dụng vì sẽ làm người tiêu dùng nổi giận. Nhưng 70 năm sau GS George Mankiw của Harvard đưa ra một ý tưởng tương tự nhằm tạo ra negative interest rate với tiền giấy. Mankiw đề suất mỗi năm chính phủ quay số chọn ra một số từ 0 đến 9 rồi tuyên bố tất cả các đồng tiền mặt có số series kết thúc bằng số được chọn sẽ không còn giá trị. Tất nhiên ý tưởng này cũng bị báo chí/dư luận ném đá tơi bời.
http://www.npr.org/sections/money/2015/11/18/456410327/episode-416-why-the-price-of-coke-didnt-change-for-70-years
http://www.npr.org/sections/money/2012/07/13/156737801/the-cost-of-free-doughnuts-70-years-of-regret
http://www.npr.org/sections/money/2015/11/18/456410327/episode-416-why-the-price-of-coke-didnt-change-for-70-years
Thursday, January 14, 2016
Nhận xét này về các nhà kinh tế của J.K. Galbraith thật chí lý:
Nhận xét này về các nhà kinh tế của J.K. Galbraith thật chí lý:
"Economists don't forecast because they know, they forecast because they are asked."
Các bạn (nhất là các nhà báo) cần lưu ý khi hỏi các "chuyên gia kinh tế" dự báo tỷ giá, lãi suất...
http://www.economist.com/news/leaders/21684781-another-year-low-prices-will-create-strains-world-economy-low-and-behold
http://www.economist.com/news/leaders/21684781-another-year-low-prices-will-create-strains-world-economy-low-and-behold
"Economists don't forecast because they know, they forecast because they are asked."
Các bạn (nhất là các nhà báo) cần lưu ý khi hỏi các "chuyên gia kinh tế" dự báo tỷ giá, lãi suất...
http://www.economist.com/news/leaders/21684781-another-year-low-prices-will-create-strains-world-economy-low-and-behold
http://www.economist.com/news/leaders/21684781-another-year-low-prices-will-create-strains-world-economy-low-and-behold
Wednesday, January 13, 2016
Tuesday, January 12, 2016
Không xây sân bay hay sắm tầu ngầm Kilo, Canada và Đan Mạch tranh giành một hòn đảo (hình bên dưới) bằng một "cuộc...
Không xây sân bay hay sắm tầu ngầm Kilo, Canada và Đan Mạch tranh giành một hòn đảo (hình bên dưới) bằng một "cuộc chiến whiskey" từ năm 1984.
Mỗi lần lên đảo phía Đan Mạch để lại một chai whiskey của mình và một tấm biển ghi "Welcome to Denmark". Sau đó phía Canada lên đảo thay một chai whiskey khác của Canada và đổi tấm biển "Welcome to Canada". Cuộc chiến giành đảo này đã diễn ra như vậy suốt 30 năm qua bất phân thắng bại. Ai nói bất kỳ cuộc chiến nào người dân đều bại?
http://www.businessinsider.com.au/canada-and-denmark-whiskey-war-over-hans-island-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/canada-and-denmark-whiskey-war-over-hans-island-2016-1
Mỗi lần lên đảo phía Đan Mạch để lại một chai whiskey của mình và một tấm biển ghi "Welcome to Denmark". Sau đó phía Canada lên đảo thay một chai whiskey khác của Canada và đổi tấm biển "Welcome to Canada". Cuộc chiến giành đảo này đã diễn ra như vậy suốt 30 năm qua bất phân thắng bại. Ai nói bất kỳ cuộc chiến nào người dân đều bại?
http://www.businessinsider.com.au/canada-and-denmark-whiskey-war-over-hans-island-2016-1
http://www.businessinsider.com.au/canada-and-denmark-whiskey-war-over-hans-island-2016-1
Chưa bao giờ thấy The Economist có bài review (về books & arts) khen nhiều như khen vở musical của Broadway này về...
Chưa bao giờ thấy The Economist có bài review (về books & arts) khen nhiều như khen vở musical của Broadway này về cuộc đời của Alexander Hamilton. TT Obama nói trong suốt cuộc đời chính trị của mình điều duy nhất ông và Dick Cheney có cùng quan điểm là sự tuyệt vời của vở musical này, một kết hợp giữa lịch sử, chính trị, với rap và hip-hop.
Có điều ngay cả nếu bạn đang ở New York cũng khó có thể xem được vì vé đã bán hết đến đầu năm 2017. Chicago và London sẽ có phiên bản riêng nhưng sớm nhất cũng phải đến cuối năm nay. Chỉ có một an ủi là soundtrack của vở diễn đã được đưa lên YouTube. Hãy search bài Cabinet Battle #1 để nghe cuộc tranh luận giữa Jefferson và Hamilton về public debt và national bank (tiền thân của Fed) bằng ngôn ngữ rap.
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21684118-why-everyone-wants-see-hamilton-patriotism-broadway
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21684118-why-everyone-wants-see-hamilton-patriotism-broadway
Có điều ngay cả nếu bạn đang ở New York cũng khó có thể xem được vì vé đã bán hết đến đầu năm 2017. Chicago và London sẽ có phiên bản riêng nhưng sớm nhất cũng phải đến cuối năm nay. Chỉ có một an ủi là soundtrack của vở diễn đã được đưa lên YouTube. Hãy search bài Cabinet Battle #1 để nghe cuộc tranh luận giữa Jefferson và Hamilton về public debt và national bank (tiền thân của Fed) bằng ngôn ngữ rap.
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21684118-why-everyone-wants-see-hamilton-patriotism-broadway
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21684118-why-everyone-wants-see-hamilton-patriotism-broadway
Trong lúc dư luận đang rất nóng về bộ tam/bộ tứ thì tình cờ đọc được bài này.
Trong lúc dư luận đang rất nóng về bộ tam/bộ tứ thì tình cờ đọc được bài này. Theo một nhóm nghiên cứu ở Harvard tuổi thọ của lãnh đạo cao nhất của một quốc gia trung bình ngắn hơn 2.7 năm so với những đối thủ bị thất cử. Cho nên đồng chí X, Y, Z nào đó phải về vườn thì có thể tự an ủy mình sẽ sống thọ hơn các đồng chí còn lại, 2.7 năm cũng đáng quí lắm chứ!
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21684049-politicians-beware-holding-public-office-can-seriously-curtail-lifespan
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21684049-politicians-beware-holding-public-office-can-seriously-curtail-lifespan
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21684049-politicians-beware-holding-public-office-can-seriously-curtail-lifespan
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21684049-politicians-beware-holding-public-office-can-seriously-curtail-lifespan
Monday, January 11, 2016
Đây có lẽ là mô hình DSGE đầu tiên cho VN do 2 chuyên gia IMF xây dựng.
Đây có lẽ là mô hình DSGE đầu tiên cho VN do 2 chuyên gia IMF xây dựng. Mô hình rất đơn giản (so với các DSGE khác), chỉ bao gồm 1 equation cho aggregate demand (output gap estimated bằng HP filter), 2 cho Philips curves (food & fuel + core), 1 cho UIP, 1 cho monetary rule (Taylor rule + exchange rate target). Mô hình được estimated bằng Bayesian method.
Mặc dù các tác giả cho rằng mô hình có in-sample fit rất tốt và có một số phân tích thú vị, tôi thấy nó có hai khiếm khuyết quan trọng. Thứ nhất monetary policy của VN trong 5-7 năm gần đây phụ thuộc rất nhiều vào credit control (bằng mệnh lệnh) chứ không phải lãi suất. Vấn đề bad debt (từ real estate sector) và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến credit growth và lạm phát. Yếu tố lạm phát còn bị ảnh hưởng bởi giá thương phẩm quốc tế. Bởi vậy chỉ mô hình hóa lạm phát ở VN bằng 2 (augmented) Phillips curves sẽ không đầy đủ.
Thứ hai nền kinh tế VN có phân chia rất rạch ròi thành 3 sectors: SOE, domestic private và FDI. Vai trò của FDI rất quan trọng trong toàn bộ sample (2000-2014) cũng như các thất bại của các industrial policies liên quan đến SOEs có ảnh hưởng rất lớn đến output và credit. Bởi vậy bỏ qua các structural equations liên quan đến aggregate supply (riêng lẻ cho các sector nói trên) không phản ánh đúng bản chất nền kinh tế VN trong 10-15 năm qua.
Hi vọng ai đó tiếp tục phát triển mô hình này sẽ có những thay đổi thích hợp. Tuy nhiên với mô hình hiện tại một kết luận rất dễ thấy là policy function của NHNN có phản ứng rất nhỏ so với optimum function (do các tác giả ước lượng) về tỷ giá danh nghĩa. Điều này có nghĩa là NHNN đã giữ tỷ giá "quá ổn định" trong thời gian qua khi nền kinh tế bị internal/external shocks so với phương án tối ưu. Tỷ giá đáng ra phải flexible hơn nhiều để thực hiện chức năng shock absorption như lý thuyết chỉ ra. Ổn định tỷ giá thái quá là một sai lầm theo quan điểm kinh tế nhưng hiện đang được dẫn chứng như một thành công của NHNN.
http://viet-studies.info/kinhte/IMF_VNMonetaryPolicy.pdf
http://viet-studies.info/kinhte/IMF_VNMonetaryPolicy.pdf
Mặc dù các tác giả cho rằng mô hình có in-sample fit rất tốt và có một số phân tích thú vị, tôi thấy nó có hai khiếm khuyết quan trọng. Thứ nhất monetary policy của VN trong 5-7 năm gần đây phụ thuộc rất nhiều vào credit control (bằng mệnh lệnh) chứ không phải lãi suất. Vấn đề bad debt (từ real estate sector) và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng cũng có ảnh hưởng rất lớn đến credit growth và lạm phát. Yếu tố lạm phát còn bị ảnh hưởng bởi giá thương phẩm quốc tế. Bởi vậy chỉ mô hình hóa lạm phát ở VN bằng 2 (augmented) Phillips curves sẽ không đầy đủ.
Thứ hai nền kinh tế VN có phân chia rất rạch ròi thành 3 sectors: SOE, domestic private và FDI. Vai trò của FDI rất quan trọng trong toàn bộ sample (2000-2014) cũng như các thất bại của các industrial policies liên quan đến SOEs có ảnh hưởng rất lớn đến output và credit. Bởi vậy bỏ qua các structural equations liên quan đến aggregate supply (riêng lẻ cho các sector nói trên) không phản ánh đúng bản chất nền kinh tế VN trong 10-15 năm qua.
Hi vọng ai đó tiếp tục phát triển mô hình này sẽ có những thay đổi thích hợp. Tuy nhiên với mô hình hiện tại một kết luận rất dễ thấy là policy function của NHNN có phản ứng rất nhỏ so với optimum function (do các tác giả ước lượng) về tỷ giá danh nghĩa. Điều này có nghĩa là NHNN đã giữ tỷ giá "quá ổn định" trong thời gian qua khi nền kinh tế bị internal/external shocks so với phương án tối ưu. Tỷ giá đáng ra phải flexible hơn nhiều để thực hiện chức năng shock absorption như lý thuyết chỉ ra. Ổn định tỷ giá thái quá là một sai lầm theo quan điểm kinh tế nhưng hiện đang được dẫn chứng như một thành công của NHNN.
http://viet-studies.info/kinhte/IMF_VNMonetaryPolicy.pdf
http://viet-studies.info/kinhte/IMF_VNMonetaryPolicy.pdf
Một nguyên tắc quan trọng của professional traders/portfolio managers là mỗi khi có một trading strategy mới phải...
Một nguyên tắc quan trọng của professional traders/portfolio managers là mỗi khi có một trading strategy mới phải backtest nó trước khi thực hiện. Nghĩa là phải "chạy thử" strategy đó với số liệu trong quá khứ để xem nó có hiệu quả hay không.
Vậy nhưng CSRC (Ủy ban Giám sát Chứng khoán TQ - tương đương như SSC của VN hay SEC của Mỹ) đã không làm điều này khi đưa ra circuit breaker cho thị trường chứng khoán nước này. Nếu backtest họ đã thấy ngưỡng 7% là quá nhỏ vì chỉ riêng năm 2015 nếu thực hiện breaker như vậy thị trường đã phải ngừng trading 20 lần. Breaker nhạy như vậy chỉ tổ đổ thêm dầu vào lửa và thực tế đã chứng minh điều này trong 4 ngày nó được thực thi tuần trước.
Tôi cứ tưởng chất lượng policy makers/regulators của TQ tốt hơn VN, hóa ra họ vẫn mắt những sai sót ngớ ngẩn như vậy.
http://www.businessinsider.com/chinas-trading-circuit-breaker-is-making-the-markets-worse-2016-1
http://www.businessinsider.com/chinas-trading-circuit-breaker-is-making-the-markets-worse-2016-1
Vậy nhưng CSRC (Ủy ban Giám sát Chứng khoán TQ - tương đương như SSC của VN hay SEC của Mỹ) đã không làm điều này khi đưa ra circuit breaker cho thị trường chứng khoán nước này. Nếu backtest họ đã thấy ngưỡng 7% là quá nhỏ vì chỉ riêng năm 2015 nếu thực hiện breaker như vậy thị trường đã phải ngừng trading 20 lần. Breaker nhạy như vậy chỉ tổ đổ thêm dầu vào lửa và thực tế đã chứng minh điều này trong 4 ngày nó được thực thi tuần trước.
Tôi cứ tưởng chất lượng policy makers/regulators của TQ tốt hơn VN, hóa ra họ vẫn mắt những sai sót ngớ ngẩn như vậy.
http://www.businessinsider.com/chinas-trading-circuit-breaker-is-making-the-markets-worse-2016-1
http://www.businessinsider.com/chinas-trading-circuit-breaker-is-making-the-markets-worse-2016-1
Sunday, January 10, 2016
Bạn Huỳnh Thế Du hay ai đó làm ơn giải thích cho tôi "nhìn nhận một cách biện chứng về CNTB" nghĩa là sao, tôi thực...
Bạn Huỳnh Thế Du hay ai đó làm ơn giải thích cho tôi "nhìn nhận một cách biện chứng về CNTB" nghĩa là sao, tôi thực sự không hiểu?
Ở nước ngoài tôi để ý báo chí và cả giới học giả ít khi nhắc đến hai chữ "chủ nghĩa" và "mô hình" so với ở VN. Có lẽ người dân ở đây không mấy quan tâm đến những vấn đề cao siêu đó, họ chỉ lo kiếm sống và bỏ phiếu cho đảng phái/chính trị gia nào họ nghĩ sẽ giúp cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Còn ở VN ĐCS lựa chọn và áp đặt mô hình chính trị/kinh tế cho đất nước (trước đây là bao cấp-kế hoach hóa, bây giờ là thị trường định hướng...), đâm ra mọi người mới hay quan tâm và bàn luận đến các thể loại mô hình/chủ nghĩa.
http://www.thesaigontimes.vn/140774/Can-nhin-nhan-mot-cach-bien-chung-ve-chu-nghia-tu-ban.html
http://www.thesaigontimes.vn/140774/Can-nhin-nhan-mot-cach-bien-chung-ve-chu-nghia-tu-ban.html
Ở nước ngoài tôi để ý báo chí và cả giới học giả ít khi nhắc đến hai chữ "chủ nghĩa" và "mô hình" so với ở VN. Có lẽ người dân ở đây không mấy quan tâm đến những vấn đề cao siêu đó, họ chỉ lo kiếm sống và bỏ phiếu cho đảng phái/chính trị gia nào họ nghĩ sẽ giúp cuộc sống của họ tốt đẹp hơn.
Còn ở VN ĐCS lựa chọn và áp đặt mô hình chính trị/kinh tế cho đất nước (trước đây là bao cấp-kế hoach hóa, bây giờ là thị trường định hướng...), đâm ra mọi người mới hay quan tâm và bàn luận đến các thể loại mô hình/chủ nghĩa.
http://www.thesaigontimes.vn/140774/Can-nhin-nhan-mot-cach-bien-chung-ve-chu-nghia-tu-ban.html
http://www.thesaigontimes.vn/140774/Can-nhin-nhan-mot-cach-bien-chung-ve-chu-nghia-tu-ban.html
Subscribe to:
Comments (Atom)
Bitcoin II
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html
-
Tôi không phản đối việc tăng giá điện, miễn là nó được quyết định bởi cung cầu và thị trường điện có cạnh tranh. Nhưng phát biểu này của thố...
-
Đọc "Ái tình và Cam ranh" của 5Xu chợt nhớ đến quốc gia này ở châu Phi. Cho dù Cam Ranh có mở cửa cho tàu của TQ vào, Djubouti mới...
-
Dành cho các bạn sinh viên kinh tế: một khoá học econometrics ngắn về network models. http://economistsview.typepad.com/economistsview/2014/...