Friday, July 29, 2016

(tiếp theo)

(tiếp theo)

Về vấn đề thảm thực vật và độ mầu mỡ của đất, Philippines viện dẫn tài liệu từ "Division Botanique à l’Institut des Recherches Agronomiques de L’Indochine" [P. 431] và báo cáo của một chuyên gia về đất đai trên đảo Ba Bình [P. 437] để khẳng định các đảo ở TS hầu như không có cây cối gì và đất không đủ tốt để trồng lương thực. Nghiên cứu của Đài Loan năm 1994 cũng cho rằng lớp đất bề mặt Ba Bình không tốt.

Nhưng toà đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy lập luận của Philippines không chính xác. Tài liệu cuộc khảo sát đầu tiên của hải quân Anh năm 1868 cho biết trên đảo Ba Bình (và Thị Tứ) ngoài thảm thực vật còn có một số cây to [P. 585]. Trong giai đoạn 1920-1940 người Nhật chiếm đảo và đã trồng một số loại cây (dừa, cọ, đu đủ, chuối, dứa) rất thành công [P. 586]. Có giai đoạn đu đủ phủ kín Ba Bình nên đảo này còn có tên lóng "Đảo Đu đủ" [P. 588]. Cũng trích dẫn tài liệu của Pháp năm 1936 nhưng toà chỉ ra các nhà khảo sát người Pháp đã tìm thấy những cây gỗ cứng cao hơn 20m và đường kính lên đến 1-2m trên đảo Ba Bình [P. 590].

Về chất lượng đất bề mặt toà không tìm được tài liệu nào phản bác hoàn toàn lập luận của Philippines nhưng toà cho rằng việc Nhật đã thành công trồng cây (rau/quả) phục vụ cho các hoạt động của họ trong giai đoạn 1920-1940 là bằng chứng rõ ràng nhất về độ mầu mỡ của đất [P. 596]. Cho nên dù toà đồng ý là Ba Bình có mức độ đa dạng thực vật thấp, cây cối chủ yếu được đưa từ ngoài vào, và diện tích đất có thể quá nhỏ để trồng cây nông nghiệp phục vụ cho một cộng đồng dân cư lớn, về tổng thể tôi đánh giá Philippines đã "thua" cả ở hai khía cạnh này.

Xét cả ba điều kiện tự nhiên (nước ngọt, thảm thực vật, lớp đất) một cách công bằng tôi nghĩ toà hoàn toàn có thể kết luận Ba Bình đủ khả năng "sustain human habitation", chí ít cho một cộng đồng dân cư nhỏ. Toà gần như đã xác nhận điều này trong Paragraph 635 khi cho rằng một nhóm nhỏ ngư dân từ Hải Nam đã có thể sống chỉ với tài nguyên của Ba Bình. Tuy nhiên ngay sau đó toà đã có một lập luận rất bất ngờ, tôi nghĩ phía TQ và có thể một số luật gia quốc tế sẽ rất "bất bình". Toà cho rằng những điều kiện tự nhiên chưa đủ chắc chắn mà còn phải xem trong lịch sử đã có một cộng đồng dân cư nào sống trên các thực thể ở TS hay chưa [P. 616]. Điều này xem ra có vẻ mâu thuẫn với cách giải thích chữ "cannot" trong Điều 121(3), theo đó toà cho rằng chỉ cần xét về "capacity" thôi chứ không cần buộc phải có một cộng đồng dân cư sinh sống [P. 483].

Tất nhiên ngoại trừ một số ngư dân đến trú trên đảo một thời gian ngắn và giai đoạn Nhật đồn trú trước WWII, không có bằng chứng nào cho thấy trên bất kỳ đảo nào ở TS có dân cư sinh sống. Toà đòi hỏi một cộng đồng dân cư phải sinh sống dài hạn và coi Ba Bình như là "nhà" chứ không phải chỉ đến sống một thời gian [P. 618]. Chỉ trừ nhóm của Thomas Cloma đã từng có ý định lập một quốc gia độc lập ở TS (nhưng thất bại), tất cả những người từng đến Ba Bình sống đều chỉ với mục đích khai thác tài nguyên rồi về [P. 621].

Cẩn thận hơn toà còn tuyên bố không có bằng chứng nào cho thấy sự thiếu vắng một cộng đồng dân cư (lâu dài) ở TS là do có ai đó cưỡng bức (không cho sống ở đây) [P. 622]. Do vậy sự thiếu vắng này là bằng chứng quan trọng nhất mà toà viện dẫn để bác bỏ khả năng "sustain human habitation" trên đảo Ba Bình.

(còn tiếp)

PS. Đảo Trường Sa Lớn và An Bang của VN trong điều kiện nguyên thuỷ không có cây to. Năm 1864 thuỷ thủ đoàn của chiến hạm Anh Rifleman đã trồng những cây dừa đầu tiên lên 2 đảo này [P. 585].

PPS. Không biết Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đông dương (l’Institut des Recherches Agronomiques de L’Indochine) đặt ở đâu, bây giờ còn không. Nếu VN kiện TQ ở HS như Philippines kiện ở TS thì rất có thể cần đến tài liệu khảo sát ở HS của viện này. HS gần hơn và Pháp chiếm đóng sớm hơn nên chắc chắn họ đã khảo sát rất kỹ địa chất/thực vật/đất đai ở các đảo HS.

No comments:

Post a Comment

Bitcoin II

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html