Đọc xong bài này tôi ngả hẳn sang phe chống việc bắt buộc học chữ Hán trong trường phổ thông.
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=83&rb=06
http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=83&rb=06
Wednesday, August 31, 2016
Tuesday, August 30, 2016
Rất ngạc nhiên khi câu này đăng trên TBKTSG, tờ báo chuyên về kinh tế tài chính hàng đầu VN.
Rất ngạc nhiên khi câu này đăng trên TBKTSG, tờ báo chuyên về kinh tế tài chính hàng đầu VN. Càng ngạc nhiên hơn khi tác giả là phóng viên Hải Lý kỳ cựu:
"Luật các tổ chức tín dụng không có bất cứ điều nào, chương nào yêu cầu ngân hàng ngừng huy động vốn khi âm vốn chủ sở hữu cả."
Vốn chủ sở hữu âm thì tất nhiên vốn điều lệ không thể đủ 3000 tỷ, CAR cũng không thể đủ 8% nên trên nguyên tắc ngân hàng phải đóng cửa chứ đừng nói gì đến tiếp tục huy động deposit. Mà không chỉ ngân hàng, bất kỳ doanh nghiệp nào khi vốn chủ sở hữu âm thì nó đã lâm vào tình trạng phá sản.
Đáng ra bài báo phải chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng những ngân hàng bị âm vốn chủ sở hữu vẫn tiếp tục huy động deposit là sự giám sát lỏng lẻo/không hiệu quả của NHNN. Thêm vào đó là chính sách (sai lầm) của cơ quan này trong những năm qua không dám để cho bất kỳ ngân hàng nào phá sản nên đã làm ngơ khi có ngân hàng bị âm vốn, rồi thu xếp để những Phạm Công Danh mua lại.
http://www.thesaigontimes.vn/150453/Tien-chech-huong.html
http://www.thesaigontimes.vn/150453/Tien-chech-huong.html
"Luật các tổ chức tín dụng không có bất cứ điều nào, chương nào yêu cầu ngân hàng ngừng huy động vốn khi âm vốn chủ sở hữu cả."
Vốn chủ sở hữu âm thì tất nhiên vốn điều lệ không thể đủ 3000 tỷ, CAR cũng không thể đủ 8% nên trên nguyên tắc ngân hàng phải đóng cửa chứ đừng nói gì đến tiếp tục huy động deposit. Mà không chỉ ngân hàng, bất kỳ doanh nghiệp nào khi vốn chủ sở hữu âm thì nó đã lâm vào tình trạng phá sản.
Đáng ra bài báo phải chỉ rõ nguyên nhân của tình trạng những ngân hàng bị âm vốn chủ sở hữu vẫn tiếp tục huy động deposit là sự giám sát lỏng lẻo/không hiệu quả của NHNN. Thêm vào đó là chính sách (sai lầm) của cơ quan này trong những năm qua không dám để cho bất kỳ ngân hàng nào phá sản nên đã làm ngơ khi có ngân hàng bị âm vốn, rồi thu xếp để những Phạm Công Danh mua lại.
http://www.thesaigontimes.vn/150453/Tien-chech-huong.html
http://www.thesaigontimes.vn/150453/Tien-chech-huong.html
Tự do hoá tài khoản vốn phải được hiểu là dòng vốn (ra/vào) của bất kỳ chủ thể nào cũng được tự do, không chịu bất...
Tự do hoá tài khoản vốn phải được hiểu là dòng vốn (ra/vào) của bất kỳ chủ thể nào cũng được tự do, không chịu bất kỳ một hạn chế nào cũng như không cần ai cho phép. Bởi vậy câu dưới đây không đúng:
"Cần biết rằng mở cửa đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là khâu cuối cùng của quá trình tự do hóa tài khoản vốn."
Chừng nào người dân chưa thể ngồi nhà bấm nút trên Internet banking để chuyển một khoản tiền nào đó ra nước ngoài thì chừng đó tài khoản vốn vẫn còn đóng. Mở cửa đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài với một loạt hạn chế/chế tài như bài báo nói thì không thể là "khâu cuối cùng" được.
Lưu ý: ở đây chưa bàn về việc những hạn chế/chế tài đó đúng hay sai, cần hay không cần mà chỉ nói về khía cạnh "mở tài khoản vốn". Dù sao trong một xã hội với vô số cấm đoán/hạn chế thì mở được cái gì ra là tốt cái đó. Dần dần người dân/doanh nghiệp sẽ nhận ra rằng mở/cởi trói thực ra không phải là "ân huệ" gì của nhà nước mà là quyền mặc định của họ.
http://www.thesaigontimes.vn/150468/Mo-cua-dau-tu-gian-tiep-ra-nuoc-ngoai---than-trong-khong-thua.html
http://www.thesaigontimes.vn/150468/Mo-cua-dau-tu-gian-tiep-ra-nuoc-ngoai---than-trong-khong-thua.html
"Cần biết rằng mở cửa đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài là khâu cuối cùng của quá trình tự do hóa tài khoản vốn."
Chừng nào người dân chưa thể ngồi nhà bấm nút trên Internet banking để chuyển một khoản tiền nào đó ra nước ngoài thì chừng đó tài khoản vốn vẫn còn đóng. Mở cửa đối với dòng vốn đầu tư gián tiếp ra nước ngoài với một loạt hạn chế/chế tài như bài báo nói thì không thể là "khâu cuối cùng" được.
Lưu ý: ở đây chưa bàn về việc những hạn chế/chế tài đó đúng hay sai, cần hay không cần mà chỉ nói về khía cạnh "mở tài khoản vốn". Dù sao trong một xã hội với vô số cấm đoán/hạn chế thì mở được cái gì ra là tốt cái đó. Dần dần người dân/doanh nghiệp sẽ nhận ra rằng mở/cởi trói thực ra không phải là "ân huệ" gì của nhà nước mà là quyền mặc định của họ.
http://www.thesaigontimes.vn/150468/Mo-cua-dau-tu-gian-tiep-ra-nuoc-ngoai---than-trong-khong-thua.html
http://www.thesaigontimes.vn/150468/Mo-cua-dau-tu-gian-tiep-ra-nuoc-ngoai---than-trong-khong-thua.html
Sunday, August 28, 2016
1.
1.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi giới ngân hàng Mỹ có một thuật ngữ mới là "living will", dịch sang tiếng Việt đại loại là "di chúc lúc còn sống". Di chúc tất nhiên phải được lập khi còn sống, nhưng nghĩa của chữ "lúc còn sống" ở đây phải hiểu là bản di chúc này sẽ được thực hiện khi bản thân người viết di chúc còn sống. Tại sao lại có chuyện trái khoáy như vậy?
Lý do là sau sự kiện ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ và Fed/FDIC bị phê phán đã không giải cứu kịp thời, Fed (mà cụ thể là Bernanke) biện hộ là họ không có cơ sở pháp lý để giải cứu. Sau đó để phòng hờ những vụ Lehman trong tương lai Fed yêu cầu các ngân hàng lớn lập "living will" trong đó nêu rõ những phương án được giải cứu khi lâm vào hoàn cảnh nguy ngập. Nghĩa là living will sẽ được thực hiện khi ngân hàng chưa "chết" mà chỉ mất khả năng hoạt động bình thường.
2.
Đọc "hồi ký" của viện sỹ Maslov về mối tình và cuộc hôn nhân với Lê Vũ Anh bất chợt tôi thấy một phiên bản của "living will" từ những năm 1980s:
"Ngay sau đó bé Lêna đã bị ốm, phải nhập viện. Trước khi vào bệnh viện cùng nằm để chăm sóc bé, nàng đã viết cho tôi một bản tuyên bố chính thức: “Nếu tôi bị bắt mang đi một mình hoặc cùng con gái và đưa đến Đại sứ quán Việt Nam, mọi người cần phải biết, điều này được thực hiện bằng vũ lực, trái với ý muốn của tôi, bất cứ điều gì do người thân trong gia đình tôi hoặc đại sứ quán phát ngôn đều không có giá trị. Tôi muốn sống với chồng Viktor Maslov ở Liên Xô, và tôi muốn chồng tôi nuôi dưỡng con gái của chúng tôi trưởng thành và thấm nhuần nền văn hóa Nga “. Tôi cho cất giữ tờ giấy này vào một nơi an toàn."
3.
Hôm nay thấy tin thầy giáo/nhà thơ Thái Bá Tân bỗng dưng "thay đổi quan điểm" tôi chợt nghĩ không biết bác ấy có "living will" hay không. Rồi tự hỏi mình có nên viết "living will" không nhỉ?
Sau cuộc khủng hoảng tài chính vừa rồi giới ngân hàng Mỹ có một thuật ngữ mới là "living will", dịch sang tiếng Việt đại loại là "di chúc lúc còn sống". Di chúc tất nhiên phải được lập khi còn sống, nhưng nghĩa của chữ "lúc còn sống" ở đây phải hiểu là bản di chúc này sẽ được thực hiện khi bản thân người viết di chúc còn sống. Tại sao lại có chuyện trái khoáy như vậy?
Lý do là sau sự kiện ngân hàng Lehman Brothers sụp đổ và Fed/FDIC bị phê phán đã không giải cứu kịp thời, Fed (mà cụ thể là Bernanke) biện hộ là họ không có cơ sở pháp lý để giải cứu. Sau đó để phòng hờ những vụ Lehman trong tương lai Fed yêu cầu các ngân hàng lớn lập "living will" trong đó nêu rõ những phương án được giải cứu khi lâm vào hoàn cảnh nguy ngập. Nghĩa là living will sẽ được thực hiện khi ngân hàng chưa "chết" mà chỉ mất khả năng hoạt động bình thường.
2.
Đọc "hồi ký" của viện sỹ Maslov về mối tình và cuộc hôn nhân với Lê Vũ Anh bất chợt tôi thấy một phiên bản của "living will" từ những năm 1980s:
"Ngay sau đó bé Lêna đã bị ốm, phải nhập viện. Trước khi vào bệnh viện cùng nằm để chăm sóc bé, nàng đã viết cho tôi một bản tuyên bố chính thức: “Nếu tôi bị bắt mang đi một mình hoặc cùng con gái và đưa đến Đại sứ quán Việt Nam, mọi người cần phải biết, điều này được thực hiện bằng vũ lực, trái với ý muốn của tôi, bất cứ điều gì do người thân trong gia đình tôi hoặc đại sứ quán phát ngôn đều không có giá trị. Tôi muốn sống với chồng Viktor Maslov ở Liên Xô, và tôi muốn chồng tôi nuôi dưỡng con gái của chúng tôi trưởng thành và thấm nhuần nền văn hóa Nga “. Tôi cho cất giữ tờ giấy này vào một nơi an toàn."
3.
Hôm nay thấy tin thầy giáo/nhà thơ Thái Bá Tân bỗng dưng "thay đổi quan điểm" tôi chợt nghĩ không biết bác ấy có "living will" hay không. Rồi tự hỏi mình có nên viết "living will" không nhỉ?
Friday, August 26, 2016
Bài này dịch chữ "yield" thành "lợi suất" là rất chính xác. Nhưng tôi thấy cần làm rõ thêm một số vấn đề.
Bài này dịch chữ "yield" thành "lợi suất" là rất chính xác. Nhưng tôi thấy cần làm rõ thêm một số vấn đề.
Câu "Ngoài yếu tố tiền lãi (coupon rate), người đầu tư vào bond còn được hưởng một khoản nữa, gọi là yield...” thực ra không chính xác. Nhà đầu tư vào trái phiếu (sơ cấp hay thứ cấp) chỉ nhận được coupon (chữ này đã được dịch khá thông dụng là "trái tức", tương đương với "cổ tức" cho cổ phiếu) và tiền gốc vào cuối kỳ. Yield là một con số đại diện cho trái phiếu được tính dựa vào một số yếu tố như giá mua, trái tức, thời hạn đáo hạn... và một số giả định (reinvestment rate, day count convention). Do đó yield là một khái niệm "nhân tạo" chứ không phải một khoản nhà đầu tư được "nhận thêm" bên cạnh coupon. Nó thuận tiện trong giao dịch và phân tích/dự báo vì nó kết hợp được nhiều thông tin liên quan đến trái phiếu mà nó đại diện. Bên cạnh "yield" trái phiếu còn có một số chỉ số "nhân tạo" khác (duration, convexity) ít phổ biến hơn, chắc không cần/không nên dịch sang tiếng Việt.
Một điểm cần lưu ý là interest, dividend, coupon có đơn vị là $. Tỷ lệ của các con số đó so với giá trị ban đầu (hoặc face value) có đơn vị là % đúng ra phải thêm chữ "rate". Nghĩa là "interest rate", "dividend rate", "coupon rate", dịch ra là "lãi suất", "tỷ lệ cổ tức", tỷ lệ trái tức". Tuy nhiên trên thị trường (và báo chí tài chính) người ta có thể nói tắt và bỏ chữ "rate" dù đề cập đến tỷ lệ, đặc biệt với coupon (e.g. "This bond has 5% coupon."). Một "thói quen" khác của thị trường là thay vì nói "dividend rate" người ta hay sử dụng "dividend yield" hơn, chữ "yield" ở đây hoàn toàn tương đương với "rate" chứ không có ý nghĩa gì đặc biệt cả. Yield luôn có đơn vị là %.
Thuật ngữ "municipal bond" trong bài này (và nhiều báo chí tiếng Việt) dịch là "trái phiếu đô thị" không hoàn toàn chính xác. Chữ "municipality" ở đây không nên hiểu máy móc là đô thị/thành phố mà là một cấp chính quyền nào đó thấp hơn chính quyền trung ương. Municipality (trong nghĩa municipal bond) có thể là bang, tỉnh, quận, huyện... Cho nên cách dịch chính xác hơn mà nhiều báo chí đã sử dụng là "trái phiếu địa phương". Trên thị trường Mỹ, municipal bonds (gọn tắt là munis) có vai trò khá đặc biệt vì nó được miễn thuế nhưng vẫn bị default risk (các bang/county của Mỹ có thể tuyên bố phá sản, trừ Puerto Rico).
Khi nói về creditworthiness, đúng là yield lên xuống có phản ánh mức độ rủi ro của nhà phát hành. Tuy nhiên thị trường thường nhìn vào spread để đánh giá rủi ro chứ không phải yield. Spread là chênh lệch giữa yield của một loại trái phiếu với một trái phiếu khác (có cùng thời gian đáo hạn), thường là trái phiếu chính phủ hoặc những loại trái phiếu có rủi ro thấp (AAA rating). Gần đây khi thị trường Credit Default Swap phát triển người ta chuyển dần sang đánh giá/trade rủi ro bằng CDS spread cho những loại bond có công cụ này.
Yield (curve) đúng là được thị trường và các nhà kinh tế/policy maker quan tâm dù có thể họ không đầu tư vào trái phiếu. Mặt bằng lợi suất (yield curve level) phản ánh nhu cầu vốn/đầu tư trong nền kinh tế. Tuy nhiên độ dốc của đường lợi suất (yield curve slope) mới là chỉ số có tính dự báo cao cho business cycle. Đường yield curve thông thường dốc lên (positive slope), nghĩa là yield ở các kỳ hạn dài cao hơn các kỳ hạn ngắn. Khi nó dốc xuống (negative slope) thì nhiều khả năng nền kinh tế sắp bị suy thoái. Tuy nhiên trong vài năm gần đây vì mặt bằng lãi suất quá thấp (bị chặn ở mức zero - zero lower bound) yield curve slope bị distorted. Một số nghiên cứu của Fed và các nhà kinh tế khác đã chỉ ra và tìm cách khắc phục vấn đề này (ai quan tâm có thể search ZIRP+yield curve).
Điểm cuối cùng là xin các bạn hãy dịch chữ "commodity" thành "THƯƠNG PHẨM", đừng dịch thành "hàng hoá" rồi thêm các tính từ bổ nghĩa vào. Chữ "thương phẩm" dù chưa phổ biến/chưa quen tai nhưng cực kỳ chính xác và rất sâu sắc cả về ý nghĩa lẫn lịch sử.
Tóm lại tôi ủng hộ cách dịch một số thuật ngữ tài chính như sau:
Securities = chứng khoán
Stock = cổ phiếu (nhưng stockmarket = thị trường chứng khoán; stock exchange = sàn giao dịch chứng khoán, stock broker = nhà/công ty môi giới chứng khoán)
Equity = cổ phiếu (equity market = thị trường cổ phiếu)
Dividend = cổ tức (dividend yield = tỷ lệ cổ tức)
Bond = trái phiếu
Coupon = trái tức
(một số người dịch bond holder = trái chủ)
Yield = lợi suất (trước đây tôi dịch là "lợi tức" nhưng "lợi suất" chính xác hơn)
Clean price = giá sạch, nhưng dirty price = giá chưa hiệu chỉnh (vì giá bẩn nghe không tốt)
Municipal bond = trái phiếu địa phương
Commodity = THƯƠNG PHẨM <<<<< please!
http://www.thesaigontimes.vn/150592/%E2%80%9CLoi-suat%E2%80%9D-la-gi?.html
http://www.thesaigontimes.vn/150592/%E2%80%9CLoi-suat%E2%80%9D-la-gi?.html
Câu "Ngoài yếu tố tiền lãi (coupon rate), người đầu tư vào bond còn được hưởng một khoản nữa, gọi là yield...” thực ra không chính xác. Nhà đầu tư vào trái phiếu (sơ cấp hay thứ cấp) chỉ nhận được coupon (chữ này đã được dịch khá thông dụng là "trái tức", tương đương với "cổ tức" cho cổ phiếu) và tiền gốc vào cuối kỳ. Yield là một con số đại diện cho trái phiếu được tính dựa vào một số yếu tố như giá mua, trái tức, thời hạn đáo hạn... và một số giả định (reinvestment rate, day count convention). Do đó yield là một khái niệm "nhân tạo" chứ không phải một khoản nhà đầu tư được "nhận thêm" bên cạnh coupon. Nó thuận tiện trong giao dịch và phân tích/dự báo vì nó kết hợp được nhiều thông tin liên quan đến trái phiếu mà nó đại diện. Bên cạnh "yield" trái phiếu còn có một số chỉ số "nhân tạo" khác (duration, convexity) ít phổ biến hơn, chắc không cần/không nên dịch sang tiếng Việt.
Một điểm cần lưu ý là interest, dividend, coupon có đơn vị là $. Tỷ lệ của các con số đó so với giá trị ban đầu (hoặc face value) có đơn vị là % đúng ra phải thêm chữ "rate". Nghĩa là "interest rate", "dividend rate", "coupon rate", dịch ra là "lãi suất", "tỷ lệ cổ tức", tỷ lệ trái tức". Tuy nhiên trên thị trường (và báo chí tài chính) người ta có thể nói tắt và bỏ chữ "rate" dù đề cập đến tỷ lệ, đặc biệt với coupon (e.g. "This bond has 5% coupon."). Một "thói quen" khác của thị trường là thay vì nói "dividend rate" người ta hay sử dụng "dividend yield" hơn, chữ "yield" ở đây hoàn toàn tương đương với "rate" chứ không có ý nghĩa gì đặc biệt cả. Yield luôn có đơn vị là %.
Thuật ngữ "municipal bond" trong bài này (và nhiều báo chí tiếng Việt) dịch là "trái phiếu đô thị" không hoàn toàn chính xác. Chữ "municipality" ở đây không nên hiểu máy móc là đô thị/thành phố mà là một cấp chính quyền nào đó thấp hơn chính quyền trung ương. Municipality (trong nghĩa municipal bond) có thể là bang, tỉnh, quận, huyện... Cho nên cách dịch chính xác hơn mà nhiều báo chí đã sử dụng là "trái phiếu địa phương". Trên thị trường Mỹ, municipal bonds (gọn tắt là munis) có vai trò khá đặc biệt vì nó được miễn thuế nhưng vẫn bị default risk (các bang/county của Mỹ có thể tuyên bố phá sản, trừ Puerto Rico).
Khi nói về creditworthiness, đúng là yield lên xuống có phản ánh mức độ rủi ro của nhà phát hành. Tuy nhiên thị trường thường nhìn vào spread để đánh giá rủi ro chứ không phải yield. Spread là chênh lệch giữa yield của một loại trái phiếu với một trái phiếu khác (có cùng thời gian đáo hạn), thường là trái phiếu chính phủ hoặc những loại trái phiếu có rủi ro thấp (AAA rating). Gần đây khi thị trường Credit Default Swap phát triển người ta chuyển dần sang đánh giá/trade rủi ro bằng CDS spread cho những loại bond có công cụ này.
Yield (curve) đúng là được thị trường và các nhà kinh tế/policy maker quan tâm dù có thể họ không đầu tư vào trái phiếu. Mặt bằng lợi suất (yield curve level) phản ánh nhu cầu vốn/đầu tư trong nền kinh tế. Tuy nhiên độ dốc của đường lợi suất (yield curve slope) mới là chỉ số có tính dự báo cao cho business cycle. Đường yield curve thông thường dốc lên (positive slope), nghĩa là yield ở các kỳ hạn dài cao hơn các kỳ hạn ngắn. Khi nó dốc xuống (negative slope) thì nhiều khả năng nền kinh tế sắp bị suy thoái. Tuy nhiên trong vài năm gần đây vì mặt bằng lãi suất quá thấp (bị chặn ở mức zero - zero lower bound) yield curve slope bị distorted. Một số nghiên cứu của Fed và các nhà kinh tế khác đã chỉ ra và tìm cách khắc phục vấn đề này (ai quan tâm có thể search ZIRP+yield curve).
Điểm cuối cùng là xin các bạn hãy dịch chữ "commodity" thành "THƯƠNG PHẨM", đừng dịch thành "hàng hoá" rồi thêm các tính từ bổ nghĩa vào. Chữ "thương phẩm" dù chưa phổ biến/chưa quen tai nhưng cực kỳ chính xác và rất sâu sắc cả về ý nghĩa lẫn lịch sử.
Tóm lại tôi ủng hộ cách dịch một số thuật ngữ tài chính như sau:
Securities = chứng khoán
Stock = cổ phiếu (nhưng stockmarket = thị trường chứng khoán; stock exchange = sàn giao dịch chứng khoán, stock broker = nhà/công ty môi giới chứng khoán)
Equity = cổ phiếu (equity market = thị trường cổ phiếu)
Dividend = cổ tức (dividend yield = tỷ lệ cổ tức)
Bond = trái phiếu
Coupon = trái tức
(một số người dịch bond holder = trái chủ)
Yield = lợi suất (trước đây tôi dịch là "lợi tức" nhưng "lợi suất" chính xác hơn)
Clean price = giá sạch, nhưng dirty price = giá chưa hiệu chỉnh (vì giá bẩn nghe không tốt)
Municipal bond = trái phiếu địa phương
Commodity = THƯƠNG PHẨM <<<<< please!
http://www.thesaigontimes.vn/150592/%E2%80%9CLoi-suat%E2%80%9D-la-gi?.html
http://www.thesaigontimes.vn/150592/%E2%80%9CLoi-suat%E2%80%9D-la-gi?.html
Thursday, August 25, 2016
Đa số mọi người đều nghĩ lái máy bay khó hơn lái xe hơi.
Đa số mọi người đều nghĩ lái máy bay khó hơn lái xe hơi. Chẳng gì thì phi công luôn được coi là nghề đòi hỏi chuyên môn cao, đào tạo rất khó và tốn kém, và tất nhiên các phi công được trả lương cao hơn nhiều so với tài xế lái xe trên mặt đất.
Tuy nhiên về mặt kỹ thuật chưa chắc chế tạo một hệ thống tự động lái máy bay (kể cả cất cánh và hạ cánh) khó hơn so với một chiếc xe hơi tự lái trên mặt đất. Dường như lượng thông tin phải xử lý và số lượng quyết định/hành động một hệ thống tự động phải đưa ra trên không ít hơn nhiều so với trên mặt đất. Bởi vậy dù Google và nhiều công ty công nghệ khác đã nghiên cứu xe hơi tự lái hơn chục năm nay nhưng tương lai của chúng vẫn còn khá xa vời.
Trong khi đó các hệ thống lái máy bay tự động (autopilot) đã được sử dụng hàng chục năm nay và theo bài báo link bên dưới các nhà khoa học ở viện KAIST(*) đã chế tạo được một con robot (gọi là Pibot) có thể ngồi vào ghế phi công của một chiếc máy bay và lái nó đến một địa điểm nhất định. Mặc dù Pibot còn phải cải thiện một số chức năng cho quá trình hạ cánh, hiện thực những con robot đó sẽ thay thế hoàn toàn human pilot đã rất gần, chắc chắn gần hơn xe hơi tự lái. Mà giá thành của một Pibot chỉ vào khoảng $100K và có thể upgrade dễ dàng để nó chuyển đổi loại máy bay.
Chưa bàn về việc liệu các phi công có lo thất nghiệp không, tôi chỉ muốn quay lại câu hỏi ban đầu là có phải lái máy bay "dễ" hơn lái xe hơi không?
(*) Viện KAIST là một viện nghiên cứu công nghệ của Hàn Quốc. Mặc dù đất nước này có rất nhiều điều đáng phục, những thành công trong nghiên cứu khoa học công nghệ của viện này là điều tôi rất ngưỡng mộ. Đây thực sự là một mô hình mà VN cần hướng tới.
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21705295-instead-rewiring-planes-fly-themselves-why-not-give-them-android
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21705295-instead-rewiring-planes-fly-themselves-why-not-give-them-android
Tuy nhiên về mặt kỹ thuật chưa chắc chế tạo một hệ thống tự động lái máy bay (kể cả cất cánh và hạ cánh) khó hơn so với một chiếc xe hơi tự lái trên mặt đất. Dường như lượng thông tin phải xử lý và số lượng quyết định/hành động một hệ thống tự động phải đưa ra trên không ít hơn nhiều so với trên mặt đất. Bởi vậy dù Google và nhiều công ty công nghệ khác đã nghiên cứu xe hơi tự lái hơn chục năm nay nhưng tương lai của chúng vẫn còn khá xa vời.
Trong khi đó các hệ thống lái máy bay tự động (autopilot) đã được sử dụng hàng chục năm nay và theo bài báo link bên dưới các nhà khoa học ở viện KAIST(*) đã chế tạo được một con robot (gọi là Pibot) có thể ngồi vào ghế phi công của một chiếc máy bay và lái nó đến một địa điểm nhất định. Mặc dù Pibot còn phải cải thiện một số chức năng cho quá trình hạ cánh, hiện thực những con robot đó sẽ thay thế hoàn toàn human pilot đã rất gần, chắc chắn gần hơn xe hơi tự lái. Mà giá thành của một Pibot chỉ vào khoảng $100K và có thể upgrade dễ dàng để nó chuyển đổi loại máy bay.
Chưa bàn về việc liệu các phi công có lo thất nghiệp không, tôi chỉ muốn quay lại câu hỏi ban đầu là có phải lái máy bay "dễ" hơn lái xe hơi không?
(*) Viện KAIST là một viện nghiên cứu công nghệ của Hàn Quốc. Mặc dù đất nước này có rất nhiều điều đáng phục, những thành công trong nghiên cứu khoa học công nghệ của viện này là điều tôi rất ngưỡng mộ. Đây thực sự là một mô hình mà VN cần hướng tới.
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21705295-instead-rewiring-planes-fly-themselves-why-not-give-them-android
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21705295-instead-rewiring-planes-fly-themselves-why-not-give-them-android
Wednesday, August 24, 2016
Nếu bạn là một bác sĩ hay nhà khoa học có lẽ sẽ nhận ra một lỗi trong câu này:
Nếu bạn là một bác sĩ hay nhà khoa học có lẽ sẽ nhận ra một lỗi trong câu này:
“Some of the worst effects of under-nutrition can be alleviated through simple interventions, like giving pregnant women iron to prevent anemia or giving children Vitamin A to manage diarrhoea.”
Nhưng một chính trị gia phát hiện ra sai sót thì thực sự đáng nể. Chính trị gia đó tên là Hillary, sai sót đó là chữ "Vitamin A".
http://www.businessinsider.com.au/hillary-clinton-private-emails-science-corrected-vitamin-a-speech-2016-8
http://www.businessinsider.com.au/hillary-clinton-private-emails-science-corrected-vitamin-a-speech-2016-8
“Some of the worst effects of under-nutrition can be alleviated through simple interventions, like giving pregnant women iron to prevent anemia or giving children Vitamin A to manage diarrhoea.”
Nhưng một chính trị gia phát hiện ra sai sót thì thực sự đáng nể. Chính trị gia đó tên là Hillary, sai sót đó là chữ "Vitamin A".
http://www.businessinsider.com.au/hillary-clinton-private-emails-science-corrected-vitamin-a-speech-2016-8
http://www.businessinsider.com.au/hillary-clinton-private-emails-science-corrected-vitamin-a-speech-2016-8
Nhân đọc bài về trái đất tròn của 5Xu mới nhớ phải link bài này lên đây.
Nhân đọc bài về trái đất tròn của 5Xu mới nhớ phải link bài này lên đây. Một tóm tắt rất cô đọng những ý tưởng kinh tế (vĩ mô) chinh trong thế kỷ 20 xoay quanh Keynesian multiplier.
PS. 5Xu viết sai tên của Milton Friedman, người đã phát biểu: “We are all Keynesians now.”
http://www.economist.com/news/economics-brief/21704784-fiscal-stimulus-idea-championed-john-maynard-keynes-has-gone-and-out
http://www.economist.com/news/economics-brief/21704784-fiscal-stimulus-idea-championed-john-maynard-keynes-has-gone-and-out
PS. 5Xu viết sai tên của Milton Friedman, người đã phát biểu: “We are all Keynesians now.”
http://www.economist.com/news/economics-brief/21704784-fiscal-stimulus-idea-championed-john-maynard-keynes-has-gone-and-out
http://www.economist.com/news/economics-brief/21704784-fiscal-stimulus-idea-championed-john-maynard-keynes-has-gone-and-out
Muốn biết 1 năm khác với 12 tháng thế nào các bạn đọc bài báo này nhé :-)
Muốn biết 1 năm khác với 12 tháng thế nào các bạn đọc bài báo này nhé :-)
http://www.thesaigontimes.vn/150194/Lai-suat-huy-dong-von-tang-vi-ly-do-ky-thuat?.html
http://www.thesaigontimes.vn/150194/Lai-suat-huy-dong-von-tang-vi-ly-do-ky-thuat?.html
http://www.thesaigontimes.vn/150194/Lai-suat-huy-dong-von-tang-vi-ly-do-ky-thuat?.html
http://www.thesaigontimes.vn/150194/Lai-suat-huy-dong-von-tang-vi-ly-do-ky-thuat?.html
Mấy hôm nay báo chí đưa tin về một hành tinh của sao Proxima Centauri (cách mặt trời 4.25 năm ánh sáng) có khả năng...
Mấy hôm nay báo chí đưa tin về một hành tinh của sao Proxima Centauri (cách mặt trời 4.25 năm ánh sáng) có khả năng duy trì sự sống, tôi nhớ lại bài này đọc trên The Economist hồi tháng trước. Bài báo nói về con tàu Juno được NASA phóng vào quĩ đạo Jupiter để thăm dò hành tinh này. Dù có rất nhiều thông tin khoa học thú vị (bạn nào quan tâm nên đọc cả bài) tôi lại có ấn tượng rất mạnh với một câu giải thích lý do tại sao Juno sẽ bị phá hủy vào năm 2018:
"NASA is required by law to ensure that there is no chance any hardy Earthling microbes could hitch a ride to the Jovian moons—especially Europa, which is thought to have beneath its icy surface a liquid-water ocean that might conceivably support life. Juno’s immolation will avoid any possibility of contamination in the future."
Phá hủy Juno sau khi nó hoàn thành xong nhiệm vụ thám hiểm để tránh không một vi sinh vật nào từ trái đất có thể ô nhiễm mặt trăng Europa (dù khả năng này rất nhỏ) là một quyết định đúng đắn và cẩn trọng. Tuy nhiên tôi rất ấn tượng vì đây không chỉ là quyết định của các nhà khoa học ở NASA mà còn là một qui định trong một bộ luật của Mỹ (required by law). Nó cho thấy các chính trị gia Mỹ đã rất có trách nhiệm với nhân loại chứ không chỉ với cử tri của mình khi thông qua bộ luật này.
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21701463-mission-jupiter-designed-investigate-giant-planets-historyand
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21701463-mission-jupiter-designed-investigate-giant-planets-historyand
"NASA is required by law to ensure that there is no chance any hardy Earthling microbes could hitch a ride to the Jovian moons—especially Europa, which is thought to have beneath its icy surface a liquid-water ocean that might conceivably support life. Juno’s immolation will avoid any possibility of contamination in the future."
Phá hủy Juno sau khi nó hoàn thành xong nhiệm vụ thám hiểm để tránh không một vi sinh vật nào từ trái đất có thể ô nhiễm mặt trăng Europa (dù khả năng này rất nhỏ) là một quyết định đúng đắn và cẩn trọng. Tuy nhiên tôi rất ấn tượng vì đây không chỉ là quyết định của các nhà khoa học ở NASA mà còn là một qui định trong một bộ luật của Mỹ (required by law). Nó cho thấy các chính trị gia Mỹ đã rất có trách nhiệm với nhân loại chứ không chỉ với cử tri của mình khi thông qua bộ luật này.
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21701463-mission-jupiter-designed-investigate-giant-planets-historyand
http://www.economist.com/news/science-and-technology/21701463-mission-jupiter-designed-investigate-giant-planets-historyand
Tuesday, August 23, 2016
Saturday, August 20, 2016
Tháng tới cậu em trai tôi sẽ đi thi một giải triathlon quốc tế, còn trong số bạn bè (người Việt) của tôi có ít nhất...
Tháng tới cậu em trai tôi sẽ đi thi một giải triathlon quốc tế, còn trong số bạn bè (người Việt) của tôi có ít nhất 3 người đã từng chạy full marathon. Vậy có phải người Việt nói riêng và dân châu Á nói chung bắt đầu quan tâm hơn đến thể thao? Chắc là vậy (vì kinh tế khá lên) nhưng theo bài báo của The Economist (link bên dưới) có thể có một cách giải thích khác rất thú vị :-)
Cậu em tôi và những người bạn rất "thể thao" của tôi đều là các professional, ở một khía cạnh nào đó là "nerd" theo cách hiểu của The Economist. Những "nerd" nổi tiếng rất thể thao khác có thể kể Elon Musk, Jeff Bezos, Larry Ellison, Sergey Brin, Mark Zuckerberg, Tim Cook, Jack Dorsey, Brian Chesky... Dường như có một phong trào giới "nerd" quốc tế đang quay sang chơi/luyện tập thể thao cường độ cao/nguy hiểm (extreme sport).
The Economist giải thích là ở các trường trung học (Mỹ) nam sinh được chia làm 2 loại: nerds vs jocks. Trong khi các nerds chìm đắm trong toán, lý, máy tính... thì các jocks "... excel in all the things that teenagers care about - getting on the football team, winning running races and attracting women". Bởi vậy khi đạt đến đỉnh cao sự nghiệp các nerds quay sang thể thao như một hình thức "revenge", chứng tỏ mình cũng là "alpha male" không kém gì các jocks thời trung học :-)
Nhưng rồi dù họ có ở đỉnh cao thành công trong sự nghiệp lẫn trong thể thao:
"... they will still be, in their deepest selves, the puny nerd who cowered, sweating and miserable, before some muscle-bound jock."
Sorry my nerdy friends :-)
http://www.economist.com/news/business/21704834-silicon-valleys-geeks-are-trying-turn-themselves-jocks-revenge-nerds
http://www.economist.com/news/business/21704834-silicon-valleys-geeks-are-trying-turn-themselves-jocks-revenge-nerds
Cậu em tôi và những người bạn rất "thể thao" của tôi đều là các professional, ở một khía cạnh nào đó là "nerd" theo cách hiểu của The Economist. Những "nerd" nổi tiếng rất thể thao khác có thể kể Elon Musk, Jeff Bezos, Larry Ellison, Sergey Brin, Mark Zuckerberg, Tim Cook, Jack Dorsey, Brian Chesky... Dường như có một phong trào giới "nerd" quốc tế đang quay sang chơi/luyện tập thể thao cường độ cao/nguy hiểm (extreme sport).
The Economist giải thích là ở các trường trung học (Mỹ) nam sinh được chia làm 2 loại: nerds vs jocks. Trong khi các nerds chìm đắm trong toán, lý, máy tính... thì các jocks "... excel in all the things that teenagers care about - getting on the football team, winning running races and attracting women". Bởi vậy khi đạt đến đỉnh cao sự nghiệp các nerds quay sang thể thao như một hình thức "revenge", chứng tỏ mình cũng là "alpha male" không kém gì các jocks thời trung học :-)
Nhưng rồi dù họ có ở đỉnh cao thành công trong sự nghiệp lẫn trong thể thao:
"... they will still be, in their deepest selves, the puny nerd who cowered, sweating and miserable, before some muscle-bound jock."
Sorry my nerdy friends :-)
http://www.economist.com/news/business/21704834-silicon-valleys-geeks-are-trying-turn-themselves-jocks-revenge-nerds
http://www.economist.com/news/business/21704834-silicon-valleys-geeks-are-trying-turn-themselves-jocks-revenge-nerds
Hôm trước nói chuyện với một ông xếp cũ tôi kể về tấm huy chương vàng của Hoàng Xuân Vinh và nhắc đến hoàn cảnh tập...
Hôm trước nói chuyện với một ông xếp cũ tôi kể về tấm huy chương vàng của Hoàng Xuân Vinh và nhắc đến hoàn cảnh tập luyện khó khăn của các vận động viên VN. Không biết có phải vì gốc Hy Lạp không nên ông ấy nói đáng ra phong trào Olympics hiện đại chỉ nên thi các môn tương tự như Olympics cổ điển, nghĩa là chủ yếu gồm điền kinh (và bơi lội). Hỏi tại sao ông ấy nói Olympics là một cuộc thi thể thao nên mục tiêu phải là "nhanh hơn, xa hơn, cao hơn" đối với con người chứ không phải các môn cần thiết bị (hiện đại), hay các môn thi đấu đối kháng, thi kỹ thuật, nghệ thuật và nhất là không nên có tính chất giải trí.
Không bàn về các khía cạnh khác, nói đến "tính giải trí" của thể thao làm tôi liên hệ đến một số bài viết so sánh thể thao Mỹ và TQ, đặc biệt nhấn mạnh đến chi tiết rất nhiều vận động viên trong đoàn Mỹ là sinh viên đại học trong khi vận động viên TQ (và VN) đa số được nhà nước nuôi và luyện từ nhỏ. Những ai đã từng học ở một đại học Mỹ (hay chỉ cần sống gần một trường đại học) có thể thấy thể thao quan trọng như thế nào với các trường. Rất nhiều sinh viên được nhận vào và cấp học bổng chỉ vì có năng khiếu thể thao, một phần lớn trong số đó thi đấu cho các trường để sau này có cơ hội trở thành vận động viên chuyên nghiệp chứ không phải vì cái bằng đại học.
Nhưng tại sao các trường đại học Mỹ lại chi rất nhiều tiền cho thể thao, thậm chí đã có bài báo chỉ ra đó là một nguyên nhân dẫn đến học phí đại học Mỹ rất cao? Có lẽ vì "tính giải trí" của thể thao có vai trò rất quan trọng trong văn hoá Mỹ. Nói thể thao Mỹ có tính "nhà nghề" hay có tính "thương mại hoá" thực ra là vì dân Mỹ coi thể thao như một loại hình giải trí quan trọng. Chính vì có nhiều khán giả xem bóng rổ/bóng chày/bóng bầu dục... nên các giải đấu của các môn đó mới chuyên nghiệp hoá/thương mại hoá được.
Nhưng tại sao thể thao có tính giải trí cao ở Mỹ? Tất nhiên phải kể đến vai trò của marketing, của các kênh truyền hình, nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là số lượng người chơi thể thao (nghiệp dư) ở Mỹ rất lớn. Bạn sẽ thích xem/quan tâm đến một giải đấu nhà nghề hơn nếu bạn cũng chơi môn thể thao đó. Tất nhiên kinh tế cũng phải phát triển đến một mức độ nào đó để con người không phải quá lo nghĩ đến cơm áo gạo tiền thì mới bỏ thời gian chơi/luyện tập/xem thi đấu thể thao. Rồi từ đó thể thao biến thành một thứ trophy quan trong tới mức các trường đại học sẵn sàng bỏ rất nhiều tiền tuyển dụng và nuôi những sinh viên có năng khiếu chỉ để họ vươn lên trong bảng xếp hạng các giải đấu sinh viên, hay góp mặt trong đổi tuyển Olympic quốc gia.
Bởi vậy nói gì thì nói về lâu dài Mỹ sẽ vấn thống trị số huy chương Olympics bởi họ có nền tảng thể thao sâu rộng. Những quốc gia như TQ, Nga, hay Úc chỉ có thể có huy chương ở những môn nhà nước bỏ tiền đầu tư vì không có nền tảng như Mỹ (dân TQ không chơi/xem thể thao nhiều, Nga kinh tế đi xuống, Úc ít dân).
Không bàn về các khía cạnh khác, nói đến "tính giải trí" của thể thao làm tôi liên hệ đến một số bài viết so sánh thể thao Mỹ và TQ, đặc biệt nhấn mạnh đến chi tiết rất nhiều vận động viên trong đoàn Mỹ là sinh viên đại học trong khi vận động viên TQ (và VN) đa số được nhà nước nuôi và luyện từ nhỏ. Những ai đã từng học ở một đại học Mỹ (hay chỉ cần sống gần một trường đại học) có thể thấy thể thao quan trọng như thế nào với các trường. Rất nhiều sinh viên được nhận vào và cấp học bổng chỉ vì có năng khiếu thể thao, một phần lớn trong số đó thi đấu cho các trường để sau này có cơ hội trở thành vận động viên chuyên nghiệp chứ không phải vì cái bằng đại học.
Nhưng tại sao các trường đại học Mỹ lại chi rất nhiều tiền cho thể thao, thậm chí đã có bài báo chỉ ra đó là một nguyên nhân dẫn đến học phí đại học Mỹ rất cao? Có lẽ vì "tính giải trí" của thể thao có vai trò rất quan trọng trong văn hoá Mỹ. Nói thể thao Mỹ có tính "nhà nghề" hay có tính "thương mại hoá" thực ra là vì dân Mỹ coi thể thao như một loại hình giải trí quan trọng. Chính vì có nhiều khán giả xem bóng rổ/bóng chày/bóng bầu dục... nên các giải đấu của các môn đó mới chuyên nghiệp hoá/thương mại hoá được.
Nhưng tại sao thể thao có tính giải trí cao ở Mỹ? Tất nhiên phải kể đến vai trò của marketing, của các kênh truyền hình, nhưng có lẽ quan trọng nhất vẫn là số lượng người chơi thể thao (nghiệp dư) ở Mỹ rất lớn. Bạn sẽ thích xem/quan tâm đến một giải đấu nhà nghề hơn nếu bạn cũng chơi môn thể thao đó. Tất nhiên kinh tế cũng phải phát triển đến một mức độ nào đó để con người không phải quá lo nghĩ đến cơm áo gạo tiền thì mới bỏ thời gian chơi/luyện tập/xem thi đấu thể thao. Rồi từ đó thể thao biến thành một thứ trophy quan trong tới mức các trường đại học sẵn sàng bỏ rất nhiều tiền tuyển dụng và nuôi những sinh viên có năng khiếu chỉ để họ vươn lên trong bảng xếp hạng các giải đấu sinh viên, hay góp mặt trong đổi tuyển Olympic quốc gia.
Bởi vậy nói gì thì nói về lâu dài Mỹ sẽ vấn thống trị số huy chương Olympics bởi họ có nền tảng thể thao sâu rộng. Những quốc gia như TQ, Nga, hay Úc chỉ có thể có huy chương ở những môn nhà nước bỏ tiền đầu tư vì không có nền tảng như Mỹ (dân TQ không chơi/xem thể thao nhiều, Nga kinh tế đi xuống, Úc ít dân).
Tuesday, August 16, 2016
Anh Nguyễn Vạn Phú dùng bài này để dạy tiếng Anh là cực chuẩn, rất nhiều từ ngữ khó và chơi chữ cực hay.
Anh Nguyễn Vạn Phú dùng bài này để dạy tiếng Anh là cực chuẩn, rất nhiều từ ngữ khó và chơi chữ cực hay. Nhưng bài này để dạy kinh tế tài chính thì có nhiều vấn đề. Tác giả dường như là supporter của Bernie Sanders, nhìn đâu cũng thấy "mặt trái" của capitalism.
Việc Buffett "cứu" Goldman Sachs năm 2008 không những là một quyết định đầu tư vô cùng sáng suốt, đúng với tiêu chí "...Greedy When Others Are Fearful", mà còn là một điều cực kỳ quan trọng cứu nền kinh tế Mỹ và cả thế giới không bị rơi xuống vực thẳm như năm 1929.
Chỉ trích effective tax rate của Berkshire Hathaway thấp (13%) và xu hướng cắt giảm nhân công sau khi mua lại công ty mà không đếm xỉa gì đến business sector, ở đây là private equity, thì tác giả là một nhà kinh tế tồi. Với tư cách là một asset manager cầm tiền của người khác đi đầu tư, trừ khi investors yêu cầu Buffett phải trả nhiều thuế hơn và không được cắt giảm nhân công, manager phải có "fiduciary duty" và "professional duty" làm đúng như những gì ông ta đã làm.
Mặc dù bài báo muốn nhấn mạnh đến vấn đề Buffettising nền kinh tế (nhưng điểm này cũng không thành công), hầu hết các chỉ trích đều nhắm vào các khía cạnh đạo đức của Buffett. Nhưng với đa số mọi người, trong đó có tôi, việc một nhà tỷ phú sống giản dị như vậy và đã/sẽ làm từ thiện phần lớn tài sản của mình là bằng chứng quan trọng nhất về đạo đức của ông.
http://www.economist.com/news/business/21704841-investing-hero-not-model-how-reform-americas-economy-donu2019t-buff-it-up
http://www.economist.com/news/business/21704841-investing-hero-not-model-how-reform-americas-economy-donu2019t-buff-it-up
Việc Buffett "cứu" Goldman Sachs năm 2008 không những là một quyết định đầu tư vô cùng sáng suốt, đúng với tiêu chí "...Greedy When Others Are Fearful", mà còn là một điều cực kỳ quan trọng cứu nền kinh tế Mỹ và cả thế giới không bị rơi xuống vực thẳm như năm 1929.
Chỉ trích effective tax rate của Berkshire Hathaway thấp (13%) và xu hướng cắt giảm nhân công sau khi mua lại công ty mà không đếm xỉa gì đến business sector, ở đây là private equity, thì tác giả là một nhà kinh tế tồi. Với tư cách là một asset manager cầm tiền của người khác đi đầu tư, trừ khi investors yêu cầu Buffett phải trả nhiều thuế hơn và không được cắt giảm nhân công, manager phải có "fiduciary duty" và "professional duty" làm đúng như những gì ông ta đã làm.
Mặc dù bài báo muốn nhấn mạnh đến vấn đề Buffettising nền kinh tế (nhưng điểm này cũng không thành công), hầu hết các chỉ trích đều nhắm vào các khía cạnh đạo đức của Buffett. Nhưng với đa số mọi người, trong đó có tôi, việc một nhà tỷ phú sống giản dị như vậy và đã/sẽ làm từ thiện phần lớn tài sản của mình là bằng chứng quan trọng nhất về đạo đức của ông.
http://www.economist.com/news/business/21704841-investing-hero-not-model-how-reform-americas-economy-donu2019t-buff-it-up
http://www.economist.com/news/business/21704841-investing-hero-not-model-how-reform-americas-economy-donu2019t-buff-it-up
TS Phạm Đỗ Chí là chuyên gia kinh tế Việt (kiều) đầu tiên tôi biết ủng hộ Donald Trump.
TS Phạm Đỗ Chí là chuyên gia kinh tế Việt (kiều) đầu tiên tôi biết ủng hộ Donald Trump. Mặc dù TS Chí chỉ trích tư tưởng bảo hộ của cả Trump và Clinton (về TPP), điều mà bất kỳ kinh tế gia nào cũng phản đối, nhưng ông cố tình lờ đi lời đe dọa của Trump sẽ xé bỏ các hiệp định thương mại Mỹ đang tham gia và đánh 43% thuế nhập khẩu lên hàng hóa TQ. Đây là lý do nhiều nhà kinh tế cho rằng kinh tế Mỹ sẽ rơi vào suy thoái nếu Trump thuyết phục được QH Mỹ thông qua những biện pháp bảo hộ này.
Liên quan đến các chính sách thuế, TS Chí cũng không hề nhắc đến hậu quả nợ công sẽ tăng vọt nếu corporate tax giảm xuống 15% và income tax giảm xuống tối đa 33%. Một nghiên cứu của Committee for a Responsible Federal Budget cho thấy sư khác biệt vô cùng lớn giữa 2 ứng cử viên. Với kế hoạch của Trump nợ công của Mỹ sẽ tăng lên 127% GDP trong 10 năm, trong khi Clinton chỉ làm tăng lên 87% (nếu giữ nguyên tax plan hiện tại con số này là 86%).
Không kể những vấn đề an ninh, ngoại giao, hay tính cách cá nhân, chỉ xét riêng về kinh tế khó thể thấy Trump có bất kỳ điểm nào hơn Clinton (bà này phải ra mặt chống TPP có lẽ vì phải thỏa hiệp với Bernie Sanders). Bởi vậy không một nhà kinh tế có tên tuổi nào của phe Cộng hòa (e.g. Mankiw, Cochrane, Taylor, Hubbard) ủng hộ Trump. Các nhà kinh tế (và giới trí thức) Việt kiều cũng vậy, chỉ trừ TS Phạm Đỗ Chí là trường hợp đầu tiên tôi biết.
PS. Phạm Đỗ Chí là một cái tên rất đình đám trong thập kỷ 90 (cùng với Vũ Quang Việt, Trần Văn Thọ, Bùi Kiến Thành) sau khi VN mở cửa đổi mới kinh tế.
http://www.diendantheky.net/2016/08/tien-si-pham-o-chi-uong-vao-toa-bach-oc.html
http://www.diendantheky.net/2016/08/tien-si-pham-o-chi-uong-vao-toa-bach-oc.html
Liên quan đến các chính sách thuế, TS Chí cũng không hề nhắc đến hậu quả nợ công sẽ tăng vọt nếu corporate tax giảm xuống 15% và income tax giảm xuống tối đa 33%. Một nghiên cứu của Committee for a Responsible Federal Budget cho thấy sư khác biệt vô cùng lớn giữa 2 ứng cử viên. Với kế hoạch của Trump nợ công của Mỹ sẽ tăng lên 127% GDP trong 10 năm, trong khi Clinton chỉ làm tăng lên 87% (nếu giữ nguyên tax plan hiện tại con số này là 86%).
Không kể những vấn đề an ninh, ngoại giao, hay tính cách cá nhân, chỉ xét riêng về kinh tế khó thể thấy Trump có bất kỳ điểm nào hơn Clinton (bà này phải ra mặt chống TPP có lẽ vì phải thỏa hiệp với Bernie Sanders). Bởi vậy không một nhà kinh tế có tên tuổi nào của phe Cộng hòa (e.g. Mankiw, Cochrane, Taylor, Hubbard) ủng hộ Trump. Các nhà kinh tế (và giới trí thức) Việt kiều cũng vậy, chỉ trừ TS Phạm Đỗ Chí là trường hợp đầu tiên tôi biết.
PS. Phạm Đỗ Chí là một cái tên rất đình đám trong thập kỷ 90 (cùng với Vũ Quang Việt, Trần Văn Thọ, Bùi Kiến Thành) sau khi VN mở cửa đổi mới kinh tế.
http://www.diendantheky.net/2016/08/tien-si-pham-o-chi-uong-vao-toa-bach-oc.html
http://www.diendantheky.net/2016/08/tien-si-pham-o-chi-uong-vao-toa-bach-oc.html
Friday, August 12, 2016
Wednesday, August 10, 2016
Một bài critic của Oliver Blanchard về DSGE rất hữu ích cho những ai đang học macroeconomics.
Một bài critic của Oliver Blanchard về DSGE rất hữu ích cho những ai đang học macroeconomics.
https://piie.com/system/files/documents/pb16-11.pdf
https://piie.com/system/files/documents/pb16-11.pdf
https://piie.com/system/files/documents/pb16-11.pdf
https://piie.com/system/files/documents/pb16-11.pdf
Tuesday, August 9, 2016
Dạo này vì mấy đứa nhỏ nhà tôi xem Olympics đâm ra tôi cũng quan tâm đến thể thao nhiều hơn bình thường :-)
Dạo này vì mấy đứa nhỏ nhà tôi xem Olympics đâm ra tôi cũng quan tâm đến thể thao nhiều hơn bình thường :-)
Đọc bài link bên dưới về một số môn thể thao "không phổ thông" lắm biết thêm vài điều thú ví. Ví dụ môn pentathlon (5 môn phối hợp) mô phỏng lại các skills cần thiết cho các kỵ binh thế kỷ 19 khi bị lạc trong lòng địch. Từ trước tới giờ nghe về 5 môn phối hợp nhưng đến giờ mới biết nó có cả đấu kiếm.
Hay như môn cưỡi ngựa vượt rào (Equestrian Dressage) khi chấm điểm ngoài tiêu chí con ngựa thực hiện các cú nhảy đẹp/đúng kỹ thuật, người kỵ sĩ phải tỏ ra có rất ít tác động/điều khiển vào con ngựa. Bởi vì chữ "dressage" trong tiếng Pháp nghĩa là "training" nên mục tiêu của môn này là con ngựa phải tự làm được các động tác mà không cần điều khiển.
Có lẽ vì phong trào Olympics hiện đại bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, thời kỳ đỉnh cao của đế quốc Anh nên có khá nhiều môn thể thao có nguồn gốc từ Anh/Scotland/Ireland (đi bộ, ném tạ, chạy vượt chướng ngại vật, bóng nước) được đưa vào thi đấu.
http://www.lifehacker.com.au/2016/08/10-of-the-strangest-events-at-the-2016-olympics-and-how-to-watch-them/
Đọc bài link bên dưới về một số môn thể thao "không phổ thông" lắm biết thêm vài điều thú ví. Ví dụ môn pentathlon (5 môn phối hợp) mô phỏng lại các skills cần thiết cho các kỵ binh thế kỷ 19 khi bị lạc trong lòng địch. Từ trước tới giờ nghe về 5 môn phối hợp nhưng đến giờ mới biết nó có cả đấu kiếm.
Hay như môn cưỡi ngựa vượt rào (Equestrian Dressage) khi chấm điểm ngoài tiêu chí con ngựa thực hiện các cú nhảy đẹp/đúng kỹ thuật, người kỵ sĩ phải tỏ ra có rất ít tác động/điều khiển vào con ngựa. Bởi vì chữ "dressage" trong tiếng Pháp nghĩa là "training" nên mục tiêu của môn này là con ngựa phải tự làm được các động tác mà không cần điều khiển.
Có lẽ vì phong trào Olympics hiện đại bắt đầu từ cuối thế kỷ 19, thời kỳ đỉnh cao của đế quốc Anh nên có khá nhiều môn thể thao có nguồn gốc từ Anh/Scotland/Ireland (đi bộ, ném tạ, chạy vượt chướng ngại vật, bóng nước) được đưa vào thi đấu.
http://www.lifehacker.com.au/2016/08/10-of-the-strangest-events-at-the-2016-olympics-and-how-to-watch-them/
Monday, August 8, 2016
Khi xem đua thuyền tôi cũng hay thắc mắc người ngồi cuối thuyền không chèo có nhiệm vụ gì.
Khi xem đua thuyền tôi cũng hay thắc mắc người ngồi cuối thuyền không chèo có nhiệm vụ gì. Trước đây cứ nghĩ anh/chị ta chỉ giữ nhịp cho cả đội, nhưng nghĩ nếu chỉ giữ nhịp chỉ cần một người vừa chèo vừa đếm chứ cần gì phải thêm một người nữa.
Hóa ra vai trò của người này (gọi là cockswain) quan trọng hơn nhiều chuyện giữ nhịp. Anh/chị ta vừa chỉnh hướng, vừa chỉ đạo kỹ thuật và chiến thuật cho các vận động viên trên thuyền y như huấn luyện viên bóng đá. Có điều theo truyền thống nếu một đội đua thuyền thắng cuộc họ sẽ tung cockswain của họ xuống nước :-)
http://www.businessinsider.com.au/what-does-a-coxswain-in-rowing-do-2016-8
http://www.businessinsider.com.au/what-does-a-coxswain-in-rowing-do-2016-8
Hóa ra vai trò của người này (gọi là cockswain) quan trọng hơn nhiều chuyện giữ nhịp. Anh/chị ta vừa chỉnh hướng, vừa chỉ đạo kỹ thuật và chiến thuật cho các vận động viên trên thuyền y như huấn luyện viên bóng đá. Có điều theo truyền thống nếu một đội đua thuyền thắng cuộc họ sẽ tung cockswain của họ xuống nước :-)
http://www.businessinsider.com.au/what-does-a-coxswain-in-rowing-do-2016-8
http://www.businessinsider.com.au/what-does-a-coxswain-in-rowing-do-2016-8
Chỉ vì không thích một cái lăng ở VN mà nhiều người nhắm mắt tung hô TT Philippines Duterte về quyết định của ông...
Chỉ vì không thích một cái lăng ở VN mà nhiều người nhắm mắt tung hô TT Philippines Duterte về quyết định của ông này cho chôn cất xác ướp của Marcos. Sự thật là sau khi Marcos chết ở Hawaii năm 1989 tổng thống Philippines Corazon Aquino đã không cho gia đình ông ta đem thi hài về nước chôn. Chỉ đến năm 1993 sau khi tổng thống Fidel Ramos (có họ hàng vớ Marcos) lên nắm quyền, gia đình ông mới được phép đem thi hài về.
Tuy nhiên ngay cả tổng thống Ramos cũng không đồng ý đòi hỏi của gia đình Marcos cho chôn ông này trong Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia. Bởi vậy gia đình Marcos đã tiếp tục giữ thi hài ông ta trong bảo tàng riêng của gia đình (có mở cửa cho dân chúng vào thăm quan) và tiếp tục gây sức ép lên các đời tổng thống sau này.
Việc Duterte chấp nhận đòi hỏi của gia đình Marcos cho phép chôn thi hài ông ta ở Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia đang bị rất nhiều người dân Philippines phản đối. Họ cho rằng một kẻ độc tài đã sát hại rất nhiều người đối lập không xứng đáng được chôn cất ở nghĩa trang đó. Nhưng tất nhiên Duterte bỏ ngoài tai mọi lời phản đối vì ông ta có lẽ cũng độc tài không kém.
Không phải Duterte xóa bỏ lăng của nhà độc tài Marcos mà là ông ta đang phong anh hùng cho một kẻ bị đa số dân Philippines căm ghét.
http://www.ft.com/cms/s/0/5d84125a-5d1c-11e6-bb77-a121aa8abd95.html#axzz4GnbWTnYh
http://www.ft.com/cms/s/0/5d84125a-5d1c-11e6-bb77-a121aa8abd95.html#axzz4GnbWTnYh
Tuy nhiên ngay cả tổng thống Ramos cũng không đồng ý đòi hỏi của gia đình Marcos cho chôn ông này trong Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia. Bởi vậy gia đình Marcos đã tiếp tục giữ thi hài ông ta trong bảo tàng riêng của gia đình (có mở cửa cho dân chúng vào thăm quan) và tiếp tục gây sức ép lên các đời tổng thống sau này.
Việc Duterte chấp nhận đòi hỏi của gia đình Marcos cho phép chôn thi hài ông ta ở Nghĩa trang Liệt sĩ Quốc gia đang bị rất nhiều người dân Philippines phản đối. Họ cho rằng một kẻ độc tài đã sát hại rất nhiều người đối lập không xứng đáng được chôn cất ở nghĩa trang đó. Nhưng tất nhiên Duterte bỏ ngoài tai mọi lời phản đối vì ông ta có lẽ cũng độc tài không kém.
Không phải Duterte xóa bỏ lăng của nhà độc tài Marcos mà là ông ta đang phong anh hùng cho một kẻ bị đa số dân Philippines căm ghét.
http://www.ft.com/cms/s/0/5d84125a-5d1c-11e6-bb77-a121aa8abd95.html#axzz4GnbWTnYh
http://www.ft.com/cms/s/0/5d84125a-5d1c-11e6-bb77-a121aa8abd95.html#axzz4GnbWTnYh
Tôi thực sự nể phục tấm huy chương Olympic của anh Hoàng Xuân Vinh trong điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất, điều...
Tôi thực sự nể phục tấm huy chương Olympic của anh Hoàng Xuân Vinh trong điều kiện khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện tập luyện, đãi ngộ của các vận động viên thể thao chuyên nghiệp của VN. Nhưng ngoài những khó khăn về mặt vật chất đó tôi nghĩ thể thao VN còn có một khó khăn rất lớn khác về mặt tinh thần.
Đó là xã hội vẫn chưa coi thể thao (chuyên nghiệp) là một nghề đáng trân trọng. Thử hỏi có bao nhiêu gia đình sẵn sàng cho con đi học bắn súng (thể thao) sau huy chương vàng của Hoàng Xuân Vinh, hay cho con đi theo con đường bơi lội chuyên nghiệp nếu mấy hôm nữa Ánh Viên cũng đoạt huy chương Olympic? Tâm lý khoa bảng vẫn là nhất là một rào cản lớn cho các môn thể thao và nghệ thuật chuyên nghiệp ở VN. Đến bao giờ VN mới có một tấm ảnh tương tự như tấm hình bên dưới?
Đó là tấm hình Mack Horton lúc 11 tuổi chụp với đương kim vô địch Olympic 2004 Grant Hackett. Trước khi chụp tấm hình này Mack mới chỉ tập bơi được 1 năm (khá muộn so với trẻ em ở Úc) và rất vất vả với môn thể thao này vì ... sợ nước. Được gặp và chụp ảnh chung với thần tượng của mình đã giúp cậu bé Mack có thêm nghị lực tập luyện và trở thành nhà vô địch Olympic 2016, đem về chiếc huy chương vàng đầu tiên về cho đoàn Úc.
PS. Trang FB của Mack Horton đang bị hơn 40000 dân TQ vào xỉ vả vì anh đã nói kháy về chuyên doping của một thần tượng bơi lội của họ khi anh này xấu chơi (trong lúc tập).
PPS. Tôi cực kỳ ấn tượng cặp mắt của anh Hoàng Xuân Vinh trong loạt bắn cuối cùng, rất tập trung, bình thản và tự tin dù loạt bắn trước đó không tốt.
http://www.businessinsider.com.au/australian-swimming-gold-medalist-mack-horton-has-this-amazing-photo-of-meeting-his-hero-as-a-kid-2016-8
http://www.businessinsider.com.au/australian-swimming-gold-medalist-mack-horton-has-this-amazing-photo-of-meeting-his-hero-as-a-kid-2016-8
Đó là xã hội vẫn chưa coi thể thao (chuyên nghiệp) là một nghề đáng trân trọng. Thử hỏi có bao nhiêu gia đình sẵn sàng cho con đi học bắn súng (thể thao) sau huy chương vàng của Hoàng Xuân Vinh, hay cho con đi theo con đường bơi lội chuyên nghiệp nếu mấy hôm nữa Ánh Viên cũng đoạt huy chương Olympic? Tâm lý khoa bảng vẫn là nhất là một rào cản lớn cho các môn thể thao và nghệ thuật chuyên nghiệp ở VN. Đến bao giờ VN mới có một tấm ảnh tương tự như tấm hình bên dưới?
Đó là tấm hình Mack Horton lúc 11 tuổi chụp với đương kim vô địch Olympic 2004 Grant Hackett. Trước khi chụp tấm hình này Mack mới chỉ tập bơi được 1 năm (khá muộn so với trẻ em ở Úc) và rất vất vả với môn thể thao này vì ... sợ nước. Được gặp và chụp ảnh chung với thần tượng của mình đã giúp cậu bé Mack có thêm nghị lực tập luyện và trở thành nhà vô địch Olympic 2016, đem về chiếc huy chương vàng đầu tiên về cho đoàn Úc.
PS. Trang FB của Mack Horton đang bị hơn 40000 dân TQ vào xỉ vả vì anh đã nói kháy về chuyên doping của một thần tượng bơi lội của họ khi anh này xấu chơi (trong lúc tập).
PPS. Tôi cực kỳ ấn tượng cặp mắt của anh Hoàng Xuân Vinh trong loạt bắn cuối cùng, rất tập trung, bình thản và tự tin dù loạt bắn trước đó không tốt.
http://www.businessinsider.com.au/australian-swimming-gold-medalist-mack-horton-has-this-amazing-photo-of-meeting-his-hero-as-a-kid-2016-8
http://www.businessinsider.com.au/australian-swimming-gold-medalist-mack-horton-has-this-amazing-photo-of-meeting-his-hero-as-a-kid-2016-8
Saturday, August 6, 2016
Đọc bài này về buôn tiền, i.e.
Đọc bài này về buôn tiền, i.e. gửi tiền ở một ngân hàng rồi lấy sổ tiết kiệm thế chấp vay ở chỗ khác lòng vòng vài lần, có cảm giác chị Hải Lý (và có lẽ nhiều người khác) cho rằng đó là một hành động xấu phải lên án/ngăn chặn. Theo tôi nó không những không phạm pháp mà còn tốt về mặt kinh tế.
Thứ nhất nó là một dạng arbitrage mà một thị trường hiệu quả luôn cần để xoá bỏ những chênh lệch giá (ở đây là lãi suất) không đáng có. Thứ hai nó giúp đẩy những ngân hàng làm ăn kém hiệu quả ra khỏi thị trường, trong trường hợp này là NHXD khi cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất nhận gửi tiết kiệm để chạy theo mục tiêu tăng trưởng tín dụng. Thứ ba nó lật tẩy sự yếu kém của NHNN trong việc điều hành/giám sát hệ thống ngân hàng thương mại.
Từ lâu tôi đã có nhận xét là NHNN không thực hiện tốt chức năng người cho vay cuối cùng. Họ sử dụng liquidity như là một biện pháp trừng phạt/thưởng cho các ngân hàng. Bởi vậy cả vụ án Huyền Như và vụ này (ở khía cạnh gửi tiền lòng vòng) là hệ quả trực tiếp của cách thức điều hành liquidity sai lầm của NHNN. Một sai lầm lớn khác là buộc các ngân hàng phải tăng vốn và tìm cách giảm số lượng ngân hàng thông quan sáp nhập bắt buộc, trong khi lơ là kiểm soát CAR và RRR. Hệ thống ngân hàng VN yếu kém tôi nghĩ phần nhiều do quản lý kém và chính sách sai của NHNN chứ không phải do các ông chủ ngân hàng tham lam/thiếu trình độ/không tuân thủ pháp luật.
http://www.thesaigontimes.vn/149624/Buon-tien.html
http://www.thesaigontimes.vn/149624/Buon-tien.html
Thứ nhất nó là một dạng arbitrage mà một thị trường hiệu quả luôn cần để xoá bỏ những chênh lệch giá (ở đây là lãi suất) không đáng có. Thứ hai nó giúp đẩy những ngân hàng làm ăn kém hiệu quả ra khỏi thị trường, trong trường hợp này là NHXD khi cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất nhận gửi tiết kiệm để chạy theo mục tiêu tăng trưởng tín dụng. Thứ ba nó lật tẩy sự yếu kém của NHNN trong việc điều hành/giám sát hệ thống ngân hàng thương mại.
Từ lâu tôi đã có nhận xét là NHNN không thực hiện tốt chức năng người cho vay cuối cùng. Họ sử dụng liquidity như là một biện pháp trừng phạt/thưởng cho các ngân hàng. Bởi vậy cả vụ án Huyền Như và vụ này (ở khía cạnh gửi tiền lòng vòng) là hệ quả trực tiếp của cách thức điều hành liquidity sai lầm của NHNN. Một sai lầm lớn khác là buộc các ngân hàng phải tăng vốn và tìm cách giảm số lượng ngân hàng thông quan sáp nhập bắt buộc, trong khi lơ là kiểm soát CAR và RRR. Hệ thống ngân hàng VN yếu kém tôi nghĩ phần nhiều do quản lý kém và chính sách sai của NHNN chứ không phải do các ông chủ ngân hàng tham lam/thiếu trình độ/không tuân thủ pháp luật.
http://www.thesaigontimes.vn/149624/Buon-tien.html
http://www.thesaigontimes.vn/149624/Buon-tien.html
Tôi viết bài này 2 tuần trước khi đang bận đọc phán quyết vụ PvsC, bây giờ đọc lại thấy không hài lòng lắm vì không...
Tôi viết bài này 2 tuần trước khi đang bận đọc phán quyết vụ PvsC, bây giờ đọc lại thấy không hài lòng lắm vì không làm nỏi bật được ý chính: capital vs liquidity. Capital ở đây phải hiểu là "a factor of production", vd máy móc, nhà xưởng, đường xá, bến cảng, software, patents, trademark, distribution system..., còn liquidity là chất liệu bôi trơn cho nền kinh tế vận hành bao gồm tiền (cash/deposit), ngoại tệ, và các loại credits.
Một nền kinh tế phát triển khi capital gia tăng và đó cũng là mục tiêu phải hướng đến. Ngược lại liquidity không phải cứ tăng là tốt mà chỉ cần ở một mức tối ưu. Chính sách/ý tưởng huy động vốn/vàng trong dân sai lầm vì nó sẽ làm tăng liquidity chứ không phải tăng capital. Capital muốn tăng thì các chủ thể trong nền kinh tế (kể cả nhà nước) phải gia tăng đầu tư vì họ nhìn thấy lợi ích của điều đó. Đồng thời nền kinh tế phải còn khả năng hấp thụ số capital tăng thêm (vd mua thêm máy bay thì phải có đủ chỗ đậu, hay mua một cái máy CT scanner phải có người biết cách sử dụng).
Tất nhiên khi hoạt động đầu tư để có thêm capital tăng lên thì nhu cầu liquidity cũng gia tăng, nhưng một hệ thống tài chính hiện đại (và đươc vận hành đúng) có thể đáp ứng điều đó mà không cần phải "huy động vốn/vàng trong dân". Tôi đã có lần phân tích trên blog về việc huy động vàng về bản chất không khác gì nới lỏng tiền tệ. Cản trở quan trọng nhất cho hoạt động đầu tư là các bottleneck trong nền kinh tế, bao gồm cả các qui định luật pháp bất hợp lý và một hệ thống quản lý/hành chính yếu kém/nhũng nhiễu. Muốn có tăng trưởng kinh tế (đồng nghĩa với tăng capital) thì phải giải quyết các bottleneck đó chứ không phải chỉ chăm chăm tìm cách tăng liquidity.
http://www.thesaigontimes.vn/149633/Huy-dong-von-duoi-goc-nhin-kinh-te-hoc.html
http://www.thesaigontimes.vn/149633/Huy-dong-von-duoi-goc-nhin-kinh-te-hoc.html
Một nền kinh tế phát triển khi capital gia tăng và đó cũng là mục tiêu phải hướng đến. Ngược lại liquidity không phải cứ tăng là tốt mà chỉ cần ở một mức tối ưu. Chính sách/ý tưởng huy động vốn/vàng trong dân sai lầm vì nó sẽ làm tăng liquidity chứ không phải tăng capital. Capital muốn tăng thì các chủ thể trong nền kinh tế (kể cả nhà nước) phải gia tăng đầu tư vì họ nhìn thấy lợi ích của điều đó. Đồng thời nền kinh tế phải còn khả năng hấp thụ số capital tăng thêm (vd mua thêm máy bay thì phải có đủ chỗ đậu, hay mua một cái máy CT scanner phải có người biết cách sử dụng).
Tất nhiên khi hoạt động đầu tư để có thêm capital tăng lên thì nhu cầu liquidity cũng gia tăng, nhưng một hệ thống tài chính hiện đại (và đươc vận hành đúng) có thể đáp ứng điều đó mà không cần phải "huy động vốn/vàng trong dân". Tôi đã có lần phân tích trên blog về việc huy động vàng về bản chất không khác gì nới lỏng tiền tệ. Cản trở quan trọng nhất cho hoạt động đầu tư là các bottleneck trong nền kinh tế, bao gồm cả các qui định luật pháp bất hợp lý và một hệ thống quản lý/hành chính yếu kém/nhũng nhiễu. Muốn có tăng trưởng kinh tế (đồng nghĩa với tăng capital) thì phải giải quyết các bottleneck đó chứ không phải chỉ chăm chăm tìm cách tăng liquidity.
http://www.thesaigontimes.vn/149633/Huy-dong-von-duoi-goc-nhin-kinh-te-hoc.html
http://www.thesaigontimes.vn/149633/Huy-dong-von-duoi-goc-nhin-kinh-te-hoc.html
Friday, August 5, 2016
Bassem Youssef, một TV host nổi tiếng của Ai Cập viết trên Quora đại ý là người ta thích Donald Trump một phần vì...
Bassem Youssef, một TV host nổi tiếng của Ai Cập viết trên Quora đại ý là người ta thích Donald Trump một phần vì "charisma" (hùng biện, hấp dẫn) của ông ta, giống như tổng thống Sisi của Ai Cập hay Hitler, Mussolini trước đây (tôi nghĩ phải kể thêm Lenin, Fidel, Chaves nữa). Nhưng chẳng mấy ai biết đến lãnh tụ của Thuỵ Điển, Na Uy, Phần Lan bởi vì những lãnh tụ đó không hề có "charisma". Những nước Bắc Âu giầu có, thanh bình không phải vì họ có những lãnh tụ có "charisma" mà vì họ có hệ thống chính trị/xã hội/kinh tế tốt. Bởi vậy Youssef cho rằng:
"If you substitute a fair system with charisma you lose."
Tôi không thể không đồng ý với Youssef vì trước đây đã từng viết một dân tộc trông đợi và giao phó vận mệnh của mình cho một lãnh tụ "anh minh" giống như đánh bạc, đa phần sẽ mất tất cả. Hãy xây dựng một hệ thống nhà nước/xã hội/kinh tế tốt để không cần phải có một lãnh tụ anh minh hay charismatic.
https://www.quora.com/What-is-it-like-to-attend-a-Trump-rally
https://www.quora.com/What-is-it-like-to-attend-a-Trump-rally
"If you substitute a fair system with charisma you lose."
Tôi không thể không đồng ý với Youssef vì trước đây đã từng viết một dân tộc trông đợi và giao phó vận mệnh của mình cho một lãnh tụ "anh minh" giống như đánh bạc, đa phần sẽ mất tất cả. Hãy xây dựng một hệ thống nhà nước/xã hội/kinh tế tốt để không cần phải có một lãnh tụ anh minh hay charismatic.
https://www.quora.com/What-is-it-like-to-attend-a-Trump-rally
https://www.quora.com/What-is-it-like-to-attend-a-Trump-rally
Thursday, August 4, 2016
Một podcast cực kỳ thú vị của NPR đi tìm nguyên nhân tại sao ngành khoa học máy tính (Computer Science) lại có tỷ lệ...
Một podcast cực kỳ thú vị của NPR đi tìm nguyên nhân tại sao ngành khoa học máy tính (Computer Science) lại có tỷ lệ nữ rất thấp. Trước đây tôi vẫn nghĩ ngành này, giống như các ngành kỹ thuật khác, có tỷ lệ nữ thấp là điều tự nhiên. Nhưng hoá ra không phải vậy, lý do là vì... Steve Jobs.
Thời khởi thuỷ của computer sau WWII phụ nữ tham gia khá nhiều trong đội ngũ lập trình viên (tôi nhớ có thấy một tấm hình phòng lập trình máy IBM ở SG những năm 1960 cũng toàn phụ nữ). Tỷ lệ phụ nữ thấp hơn nam nhưng nhìn chung tỷ lệ này trong ngành CS tăng khá đều so với các ngành khác cho đến năm 1984 (đường mầu đỏ trong đồ thị bên dưới). Tại sao năm 1984 lại có sự thay đổi lớn như vậy?
Theo podcast này đó là thời điểm PC ra đời và bắt đầu thâm nhập vào các hộ gia đình. Trước đó máy tính vẫn được coi là một công cụ làm việc trung tính, nhưng đến khi được bán cho cá nhân nó được quảng cáo như một loại "đồ chơi". Mà đồ chơi thì luôn đi cùng với giới tính nên sau khi PC xuất hiện nó được/bị gắn với nam giới. Kể từ đó nam giới bá chủ ngành CS vì ngay từ nhỏ họ đã được tiếp xúc nhiều với máy tính, trong khi đa số các bé gái coi đây là một loại "đồ chơi" không phù hợp với giới tính của mình. Chính cái perception/stereotype này càng ngày càng đẩy xa phụ nữ ra khỏi ngành CS, kể từ năm 1984 "định mệnh" đó.
Đây là một ví dụ tuyệt vời của khái niệm path dependence trong kinh tế học.
http://www.npr.org/sections/money/2014/10/21/357629765/when-women-stopped-coding
http://www.npr.org/sections/money/2014/10/21/357629765/when-women-stopped-coding
Thời khởi thuỷ của computer sau WWII phụ nữ tham gia khá nhiều trong đội ngũ lập trình viên (tôi nhớ có thấy một tấm hình phòng lập trình máy IBM ở SG những năm 1960 cũng toàn phụ nữ). Tỷ lệ phụ nữ thấp hơn nam nhưng nhìn chung tỷ lệ này trong ngành CS tăng khá đều so với các ngành khác cho đến năm 1984 (đường mầu đỏ trong đồ thị bên dưới). Tại sao năm 1984 lại có sự thay đổi lớn như vậy?
Theo podcast này đó là thời điểm PC ra đời và bắt đầu thâm nhập vào các hộ gia đình. Trước đó máy tính vẫn được coi là một công cụ làm việc trung tính, nhưng đến khi được bán cho cá nhân nó được quảng cáo như một loại "đồ chơi". Mà đồ chơi thì luôn đi cùng với giới tính nên sau khi PC xuất hiện nó được/bị gắn với nam giới. Kể từ đó nam giới bá chủ ngành CS vì ngay từ nhỏ họ đã được tiếp xúc nhiều với máy tính, trong khi đa số các bé gái coi đây là một loại "đồ chơi" không phù hợp với giới tính của mình. Chính cái perception/stereotype này càng ngày càng đẩy xa phụ nữ ra khỏi ngành CS, kể từ năm 1984 "định mệnh" đó.
Đây là một ví dụ tuyệt vời của khái niệm path dependence trong kinh tế học.
http://www.npr.org/sections/money/2014/10/21/357629765/when-women-stopped-coding
http://www.npr.org/sections/money/2014/10/21/357629765/when-women-stopped-coding
Wednesday, August 3, 2016
Lại nói thêm về "kiện" :-)
Lại nói thêm về "kiện" :-)
Thấy nhiều người đòi chính phủ phải kiện Formosa, theo hiểu biết của tôi về luật pháp thì như vậy không đúng. Chính phủ, mà đúng ra là Viện Kiểm sát, phải truy tố Formosa nếu họ có những hoạt động phạm tội hình sự chứ không phải kiện. Nếu Formosa chỉ vi phạm hành chính chứ chưa đến mức hình sự thì không khởi tố mà phạt hành chính theo một khung phạt định trước.
Nhưng người dân ở những khu vực bị ảnh hưởng do hoạt động sai trái của Formosa có thể kiện dân sự yêu cầu công ty này bồi thường những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Vấn đề kiện dân sự không cần được nhà nước/chính phủ cho phép hay ủng hộ, đó là quyền của người dân. Còn nếu các tòa án ở VN không nhận đơn kiện, những người bị hại có thể đâm đơn kiện dân sự ở một tòa án của Đài Loan. Chí ít bên đó cũng có vài vị dân biểu ủng hộ.
Số tiền 500 triệu USD Formosa đồng ý bồi thường cho nhà nước VN có thể coi là tiền nộp phạt hành chính. Nhưng nhiều khả năng đó là một dạng thỏa thuận ngoài tòa (out of court settlement) rất phổ biến ở phương Tây, chủ yếu để tránh bị khởi tố hình sự. Nhưng ngay cả khi Formosa đã có settlement với chinh phủ, các bên thứ ba bị thiệt hại vẫn có thể kiện dân sự đòi bồi thường thêm. Một ví dụ gần đây là một loạt ngân hàng lớn chấp nhận trả hàng trăm triệu settlement về vụ Libor manipulation nhưng vẫn có những công ty tư nhân kiện dân sự với lý do họ bị thiệt hại do Libor bị "làm giá".
Thấy nhiều người đòi chính phủ phải kiện Formosa, theo hiểu biết của tôi về luật pháp thì như vậy không đúng. Chính phủ, mà đúng ra là Viện Kiểm sát, phải truy tố Formosa nếu họ có những hoạt động phạm tội hình sự chứ không phải kiện. Nếu Formosa chỉ vi phạm hành chính chứ chưa đến mức hình sự thì không khởi tố mà phạt hành chính theo một khung phạt định trước.
Nhưng người dân ở những khu vực bị ảnh hưởng do hoạt động sai trái của Formosa có thể kiện dân sự yêu cầu công ty này bồi thường những thiệt hại mà họ phải gánh chịu. Vấn đề kiện dân sự không cần được nhà nước/chính phủ cho phép hay ủng hộ, đó là quyền của người dân. Còn nếu các tòa án ở VN không nhận đơn kiện, những người bị hại có thể đâm đơn kiện dân sự ở một tòa án của Đài Loan. Chí ít bên đó cũng có vài vị dân biểu ủng hộ.
Số tiền 500 triệu USD Formosa đồng ý bồi thường cho nhà nước VN có thể coi là tiền nộp phạt hành chính. Nhưng nhiều khả năng đó là một dạng thỏa thuận ngoài tòa (out of court settlement) rất phổ biến ở phương Tây, chủ yếu để tránh bị khởi tố hình sự. Nhưng ngay cả khi Formosa đã có settlement với chinh phủ, các bên thứ ba bị thiệt hại vẫn có thể kiện dân sự đòi bồi thường thêm. Một ví dụ gần đây là một loạt ngân hàng lớn chấp nhận trả hàng trăm triệu settlement về vụ Libor manipulation nhưng vẫn có những công ty tư nhân kiện dân sự với lý do họ bị thiệt hại do Libor bị "làm giá".
Title
Sau khi Philippines khởi kiện và toà bắt đầu thu thập các bằng chứng để xác định Ba Bình là đảo hay là đá, Đài Loan vội vã gửi thông tin đến toà và thậm chí còn lên tiếng mời toà ra thăm thực địa đảo Ba Bình. Tất nhiên Đài Loan muốn Ba Bình được tuyên bố là đảo để có EEZ. Đầu năm 2016 họ còn đưa dân ra sống trên đảo này [P. 435], có lẽ hi vọng đó sẽ là bằng chứng tại toà là Ba Bình có thể "sustain human habitation".
Kết quả toà phán xét thế nào các bạn đã biết, ở đây tôi chỉ muốn nêu ra một điểm là Đài Loan đã chậm chân hơn VN ít nhất chục năm trong việc đưa dân ra TS sống lâu dài. Không kể các chương trình góp đá xây đảo, góp xuồng cứu sinh cho TS được quảng bá khá rầm rộ, VN đã âm thầm cho dân ra sinh sống ở các đảo TS ít nhất từ hơn 10 năm trước. Các công trình dân sự như chùa chiền, trường học, nhà văn hoá, trạm xá, nhà dân đã được xây dựng rất khang trang trên nhiều đảo lớn. Chỉ đến vài năm gần đây báo chí mới rầm rộ đưa tin về các hoạt động dân sự này ở TS.
Đa số người Việt coi đây là những hành động thực thi chủ quyền và rất tự hào về điều này. Nhưng tôi không loại trừ khả năng trong các cơ quan thẩm quyền về biển đảo của VN vẫn có quan điểm đưa dân ra TS sống để biết đâu sau này có thể dùng điều đó làm bằng chứng các đảo của VN đúng là đảo theo Điều 121(3). Tuy nhiên sau khi toà ra phán quyết tất cả các thực thể ở TS không phải là đảo (không có EEZ) thì có gắng duy trì một vài cộng đồng dân sự trên các đảo TS sẽ còn rất ít ý nghĩa. Ngay cả nếu VN im lặng về điểm này (để tránh estoppel trong các vụ kiện trong tương lai) vẫn khó có thể hi vọng một toà án nào đó có thể lật lại quyết định của toà xử vụ PvsC vừa rồi.
Chắc chắn việc duy trì các cộng đồng dân sự, chùa chiền, trường học ở TS rất tốn kém, dù gì đó cũng chỉ là đá chứ không phải đảo đúng nghĩa. Cuộc sống của những người dân ở đó có lẽ cũng rất khó khăn, gian lao, nguy hiểm. Mặc dù họ có thể đã tự nguyện xung phong ra TS sống vì tinh thần yêu nước, tôi vẫn cảm thấy xót xa khi họ phải xa quê hương, gia đình, chịu cực khổ ở đầu sóng ngọn gió, hiểm nguy trước họng súng TQ, nhưng cuối cùng vẫn không giúp VN có được EEZ. Bởi vậy tôi mong muốn họ được về đất liền sinh sống, giao lại trách nhiệm bảo vệ chủ quyền cho những người lính chuyên nghiệp.
Tất nhiên những suy nghĩ trên đây của tôi có thể sai, có thể còn nhiều lắt léo trong công pháp quốc tế mà tôi không biết. Nhưng tôi vẫn muốn đưa điều này ra đây để các bạn cùng suy ngẫm và các chuyên gia biển đảo thực thụ đánh giá, dù biết nói ra có thể sẽ nhận nhiều gạch đá.
Monday, August 1, 2016
Title
(tiếp theo)
Về điều kiện thứ 2: "sustain economic life of their own" toà giải thích rằng một thực thể được coi là đảo khi nó có resource mà người dân sống ở đó khai thác và sống được nhờ những hoạt động đó trong dài hạn. Nếu trên một hòn đảo có một lượng khoáng sản, bất kể giá trị lớn nhỏ thế nào, một quốc gia đến khai thác một thời gian rồi đi thì hòn đảo đó cũng chỉ được coi là đá không có EEZ [P. 499]. Lập luận này có thể nói rất bất lợi cho VN khi chúng ta vẫn cố cổ suý bằng chứng về các hải đội được nhà Nguyễn phái ra HS-TS khai thác. Tôi lo ngại rằng một toà án có quan điểm tương tự như các thẩm phán ở vụ PvsC này sẽ cho rằng các hải đội trong quá khứ của VN, cũng như các nhóm ngư phủ TQ từ Hải Nam hay đội tầu của Trịnh Hoà đến trú ngụ và khai thác các đảo HS-TS không phải là bằng chứng "thực thi chủ quyền" ở các đảo này.
Toà cũng nhấn mạnh vào điểm "of their own" nghĩa là resource trên một hòn đảo phải đủ cho cộng đồng dân cư trên đó duy trì các hoạt động kinh tế mà không cần "nhập" resource từ nơi khác cũng như không cần khai thác resource từ các vùng biển lân cận. Việc khai thác resource trên đảo và trên biển lân cận phải để phục vụ cho việc phát triển kinh tế của cộng đồng dân cư trên đảo [P. 500]. Ở đây toà đưa ra một lập luận rất thú vị: việc khai thác resource trên biển chỉ được trong phạm vi territorial water chứ không ra đến EEZ hay continental shelf bởi vì nếu không sẽ tạo thành một dạng logic vòng tròn [P. 502] (khai thác EEZ ==> đảo, nhưng đảo ==> EEZ).
Điểm cuối cùng là từ những lập luận bên trên toà cho rằng điều kiện 1 (sustain human habitation) và 2 (sustain economic life of their own) thực ra phải luôn đi cùng nhau. Cho nên "economic life" của một hòn đảo phải hiểu là "livelihood" của cộng đồng dân cư sống trên đảo đó [P. 543]. Lập luận này cũng phù hợp với mục đích của UNCLOS khi đưa ra khái niệm EEZ là để phục vụ cho một cộng đồng dân cư có sẵn trên một hòn đảo chứ không phải để các quốc gia tranh giành biển với nhau. Có thể thấy tinh thần công bằng và nhân đạo của UNCLOS từ các điều khoản về EEZ và toà đã ủng hộ cách tiếp cận này.
Xem xét một loạt ghi chép lịch sử từ các cuộc khải sát của hải quân Anh, Viện Nông nghiệp Đông dương trước WWII, và các bằng chứng của Nhật toà kết luận rằng chưa bao giờ có một cộng đông dân cư sống lâu dài và ổn định trên các đảo ở TS nói chung và Ba Bình nói riêng. Các hòn đảo đó không có đủ resource để đảm bảo "economic life" mà chỉ là nơi đồn trú một thời gian cho một/vài nhóm ngư dân nhỏ (không có gia đình đi theo) và khai thác phosphate/phân chim (guano) trong một thời gian [P. 623-625]. Do vậy các thực thể này, bao gồm Ba Bình, không có EEZ và continental shelf [P. 626].
Sau khi xác định tất cả các thực thể ở TS không có EEZ, toà phán quyết rằng Submission 5 của Philippines đúng. Nghĩa là Đá Vành khăn và Bãi Cỏ may nằm hoàn toàn trong EEZ của Philippines (tính từ bờ biển Palawan). Đây là thắng lợi quan trọng của Philippines, đồng thời mở ra một hi vọng cho VN nếu chúng ta kiện tương tự với các đảo ở HS. Giả sử một toà trọng tài (ở PCA/ITLOS) cũng tuyên bố các đảo ở HS không có EEZ, vị trí giàn khoan HD-981 chắc chắn nằm trong EEZ của VN (tính từ đất liền). Hơn nữa phần lớn ngư trường quanh các đảo HS cũng sẽ thuộc EEZ của VN và TQ sẽ không có quyền đánh cá ở đó chứ đừng nói gì xua đuổi hay bắt các tàu cá VN.
VN đã "lỡ tàu" không join với Philippines trong vụ kiện này, mà khả năng thắng rất cao. Nhưng có lẽ vẫn chưa muộn, hãy gác lại vấn đề chủ quyền ở HS, chỉ cần đòi được EEZ đúng như qui định của UNCLOS đã là một thắng lợi vô cùng lớn cho VN. Rất nhiều người hồ hởi rằng vụ PvsC đã "cắt đứt đường lưỡi bò", điều này hoàn toàn đúng theo nghĩa đen. Một nửa lưỡi bò đã bị cắt rụng nhưng phần cuống dính vào HS vẫn còn. TQ không chỉ claim EEZ cho các đảo ở HS mà còn đòi coi đây là một quần đảo để vẽ đường cơ sở thẳng (linear baseline) nên phần EEZ của VN sẽ bị thu hẹp đáng kể. Nếu không xoá bỏ được điều này VN vẫn là người thua cuộc.
Subscribe to:
Comments (Atom)
Bitcoin II
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html
-
Tôi không phản đối việc tăng giá điện, miễn là nó được quyết định bởi cung cầu và thị trường điện có cạnh tranh. Nhưng phát biểu này của thố...
-
Đọc "Ái tình và Cam ranh" của 5Xu chợt nhớ đến quốc gia này ở châu Phi. Cho dù Cam Ranh có mở cửa cho tàu của TQ vào, Djubouti mới...
-
Dành cho các bạn sinh viên kinh tế: một khoá học econometrics ngắn về network models. http://economistsview.typepad.com/economistsview/2014/...