Thursday, August 28, 2014

Update: Xin lỗi các bạn tôi viết sai bên dưới vì nhìn nhầm số liệu yield của trái phiếu chính phủ VN.

Update: Xin lỗi các bạn tôi viết sai bên dưới vì nhìn nhầm số liệu yield của trái phiếu chính phủ VN. Yield 8% là cho trái phiếu bằng VND trong nước, còn yield cho trái phiếu bằng USD chỉ khoảng 6.75%. Như vậy chính phủ VN sẽ có lợi cả cashflow lẫn yield khi đảo nợ cho số bond 2005 sắp đáo hạn.


Đợt vay 750 triệu USD năm 2005 sắp sửa tới hạn nên chính phủ phải vay để đảo nợ là chuyện bình thường (trừ khi chính phủ đang có thặng dư có thể trả nợ mà không cần vay thêm). Điều đáng nói là ông bộ trưởng Nguyễn Văn Nên phát biểu rằng hiện nay chính phủ có thể vay (phát hành bond quốc tế) với lãi suất thấp hơn là không chính xác.

Đợt phát hành bond năm 2005 có coupon rate là 7.125%, nghĩa là ở thời điểm đó yield cũng xấp xỉ như vậy. Hiện tại trái phiếu quốc tế 10 năm của VN có yield vào khoảng 8%, nghĩa là nếu chúng ta đi vay vào thời điểm này thì phải trả lãi suất cao hơn năm 2005. Với coupon bond cần phải so sánh yield chứ không phải coupon rate để đánh giá mặt bằng "lãi suất" người đi vay phải trả.

Nếu chỉ xét riêng về cashflow thì với mặt bằng yield 8% hiện tại coupon rate của bond mới cũng sẽ xấp xỉ 8%. Như vậy cashflow của chính phủ sẽ tệ hơn coupon rate 7.125% của năm 2005 và 6.75% năm 2010. Đợt vay này chỉ đơn giản là chính phủ phải đảo nợ vì không có thặng dư để trả đứt số tiền sắp tới hạn, cả yield và coupon rate đều sẽ cao hơn năm 2005.
http://www.thesaigontimes.vn/119454/Chinh-phu-dang-can-nhac-vay-1-ti-do-la-My-de-dao-no.html

Dạo trước tôi có trao đổi qua email với Greg Austin, tác giả một quyển sách về tranh chấp Biển Đông.

Dạo trước tôi có trao đổi qua email với Greg Austin, tác giả một quyển sách về tranh chấp Biển Đông. Tuần rồi ông báo cho tôi biết vừa viết xong một quyển sách về cyber security của TQ, tôi chưa có điều kiện đọc nhưng chắc chắn đây sẽ là một vấn đề vô cùng quan trọng cho tương lai.

Việc Bộ Công an VN thành lập Cục An ninh mạng là điều cần thiết và tôi hoàn toàn ủng hộ. Chỉ mong rằng cơ quan này sẽ thực sự là lá chắn cho các cuộc cyber attack của TQ hay các nước khác trong tương lai chứ không phải là công cụ để hack facebook hay email của các nhà bất đồng chính kiến.
http://www.sggp.org.vn/xahoi/2014/8/359611

Wednesday, August 27, 2014

Chữ "học khu" anh Phú dịch từ "school district", ai muốn tham khảo thêm về thuật ngữ này đọc ở đây:...

Chữ "học khu" anh Phú dịch từ "school district", ai muốn tham khảo thêm về thuật ngữ này đọc ở đây: http://en.wikipedia.org/wiki/School_district. Úc cũng có phân chia tương tự cho các trường công, trường tư có hệ thống riêng, vd hệ thống Catholic schools, hoặc không nằm trong hệ thống nào cả (independent schools). 

Một thuật ngữ cần lưu ý trong trang wiki này là "body corporate" để chỉ một pháp nhân thường được bầu ra bằng phổ thông đầu phiếu của những người có chung quyền lợi/nghĩa vụ (ở đây là các trường và cộng đồng dân cư). Về mặt pháp luật body corporate không chịu sự chỉ đạo của bất kỳ cơ quan hành chính nào mà chỉ chịu trách nhiệm trước những người bầu ra mình (dù funding trong trường hợp school district do tiểu bang cấp).

Hệ thống giáo dục Mỹ/Úc phân cấp rất sâu, school district có tự chủ trong nhiều mặt, vd trong việc quyết định đưa tablet vào trường học như trong trường hợp này, miễn là họ thu xếp đủ funding. Hệ thống giáo dục của VN có hierarchy bộ/sở/phòng GD rất chặt chẽ, có lẽ theo mô hình Pháp.

Rất thú vị là The Economist tuần này có một bài về cải cách giáo dục của Pháp, đang bỏ dần cách chấm điểm ngặt nghèo trước đây để khuyến khích sáng tạo như ý tưởng của Ken Robinson tôi có link hôm trước: 

"Last year the education ministry reported on an experiment in middle schools, in which marks out of 20 were abandoned in favour of comments, or vague letter grades. ....  by creating less stress over failure, the report found, pupils were encouraged to take risks and participate in class, and often became more confident."

http://www.economist.com/news/europe/21613301-moves-are-afoot-reconsider-frances-harsh-grading-system-bac-blues

Originally shared by Phu Nguyen Van

Các báo hôm nay tha hồ đưa tin về vụ Los Angeles vừa mới tuyên bố ngưng chương trình trang bị máy tính bảng cho học sinh trong học khu. 

Cái này trong báo chí gọi là tính liên quan. Chuyện ở Mỹ ít khi lên báo Việt Nam nhưng chuyện này nó liên quan, nó tạo liên tưởng, liên đới... nên chắc sẽ có nhiều báo đưa đậm.

Tuy vậy nên nhớ chương trình của họ ngon lành hơn nhiều: máy tính bảng là loại iPad chứ không phải đồ rẻ tiền; biên soạn chương trình giáo khoa là NXB Pearson nổi tiếng; trị giá chương trình đến 1 tỷ đô-la trong đó một nửa dành cho Apple và Pearson, một nửa dành cho việc nâng cấp hạ tầng Wifi... Thế mà họ vẫn ngưng.

Chương trình đã giải ngân được 61 triệu đô-la; đã trao iPad cho học sinh ở 58 trường. Thế mà họ vẫn ngưng.

Lý do rất đơn giản: thanh tra quy trình đấu thầu cho thấy điều kiện gọi thầu được biên soạn sao cho có lợi cho sản phẩm của Apple và Pearson hơn là xuất phát từ nhu cầu của học khu; các quan chức giáo dục cũng bị phát hiện là liên lạc thường xuyên với Apple và Pearson, một tình huống tạo ra XUNG ĐỘT LỢI ÍCH mặc dù chưa ai vi phạm gì quy tắc đạo đức cả.

Monday, August 25, 2014

Cách đây 2 năm trong một diễn đàn kinh tế của QH bạn Đinh Tuấn Minh (cũng của VERP) đưa ra ý tưởng VN phải đi vay...

Cách đây 2 năm trong một diễn đàn kinh tế của QH bạn Đinh Tuấn Minh (cũng của VERP) đưa ra ý tưởng VN phải đi vay các tổ chức quốc tế (IMF, WB) để giải quyết vấn đề nợ xấu. Bloomberg đã rất nhanh nhẩu đưa tin thành VN sắp phải xin IMF bailout. Bây giờ bạn Thành (giám đốc VERP) phát biểu thế này có lẽ nên cảnh báo trước với phóng viên Bloomberg.

Hay bạn Thành "đánh tiếng" hộ ai đó một kế hoạch vay đang rục rịch triển khai?
http://gafin.vn/20140825102549510p0c34/xu-ly-no-xau-bang-cach-di-vay-cac-to-chuc-tai-chinh-quoc-te-20-ty-usd.htm

Đọc bài này để biết mặt ba trí thức Việt kiểu nổi tiếng: Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, Ngô Vĩnh Long (bonus thêm...

Đọc bài này để biết mặt ba trí thức Việt kiểu nổi tiếng: Vũ Quang Việt, Trần Hữu Dũng, Ngô Vĩnh Long (bonus thêm phóng viên Nguyễn Hùng của BBC tiếng Việt). Tôi có quan điểm khá gần với họ, VN nên tập trung giải quyết tranh chấp ranh giới biển với TQ (theo UNCLOS) thay vì sa lầy vào vấn đề chủ quyền HS-TS.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2014/08/140808_south_china_sea_discussion.shtml

Trước đây tôi nghĩ ai cũng quan tâm đến chính trị, sau này lại cho rằng ai cũng quan tâm đến kinh tế.

Trước đây tôi nghĩ ai cũng quan tâm đến chính trị, sau này lại cho rằng ai cũng quan tâm đến kinh tế. Nhưng sau khi xem xong bài thuyết trình popular nhất trên TED của Ken Robinson, tôi đồng ý với ông là ai cũng quan tâm đến giáo dục. Câu trích dẫn Jonas Salk ở cuối bài thực sự đáng suy ngẫm:

"If all the insects were to disappear from the earth, within 50 years all life on Earth would end. If all human beings disappeared from the earth, within 50 years all forms of life would flourish."
https://www.ted.com/talks/ken_robinson_says_schools_kill_creativity

Thursday, August 21, 2014

Hội đồng quản trị của một công ty là một nhóm người đại diện cho các cổ đông của công ty đó giám sát hoạt động của...

Hội đồng quản trị của một công ty là một nhóm người đại diện cho các cổ đông của công ty đó giám sát hoạt động của ban giám đốc (executives). Lĩnh vực nghiên cứu về chức năng, hình thức và mối quan hệ giữa HĐQT với executives gọi à corporate governance. Lĩnh vực này là sự giao thoa giữa luật, kinh tế, và quản trị kinh doanh (business administration).

Mặc dù mô hình quản trị này đã có từ hơn trăm năm qua và không ít lần bộc lộ nhược điểm chết người, về cẳn bản cơ cấu và hoạt động của HĐQT hầu như không có thay đổi gì đáng kể. Tờ The Economist tuần này giới thiệu một mô hình toàn toàn mới do hai giáo sư luật (UCLA và UChicago) đề xuất. Theo đó các thành viên trong HĐQT sẽ được thay bằng các công ty chuyên nghiệp (Board Service Providers - BSP). Một công ty sử dụng dịch vụ của BSP sẽ giống như thuê management consulting, law & accounting/auditing service. Chỉ có một điểm khác biệt là người thuê BSP (và BSP sẽ phải chịu trách nhiệm trước họ) là các cổ đông chứ không phải executives.

Tạm không bàn về các ưu/nhược điểm của hình thức HĐQT này (ai quan tâm chịu khó đọc bài link bên dưới). Điều thú vị là hình thức HĐQT này trên thực tế đã tồn tại ở ... VN. Cụ thể SCIC chính là một dạng BSP chuyên cung cấp dịch vụ board member cho một shareholder rất lớn là nhà nước. Tất nhiên bên cạnh việc đại diện cho nhà nước ở HĐQT của các công ty đã được cổ phần hoá (chức năng BSP), SCIC còn làm những chức năng khác như tổ chức thoái vốn, tiến hành đầu tư thêm (chức năng của một private equity fund).

Điểm khác biệt quan trọng giữa mô hình SCIC hiện tại của VN và đề xuất của 2 giáo sư luật nói trên là sự cạnh tranh và tính chuyên nghiệp. SCIC hiện nay là một công ty nhà nước và độc quyền trong lĩnh vực BSP (lĩnh vực private equity thì họ phải cạnh tranh với rất nhiều quĩ tư nhân khác). SCIC cũng thiếu chuyên nghiệp vì bộ khung ban đầu gần như là một phần của Bộ Tài chính tách ra, dù gần đây đã bắt đầu thuê các chuyên gia giỏi nhưng chưa thực sự được độc lập như Temasek.

Nếu VN cải tổ mô hình SCIC, tạo cạnh tranh bằng cách cho phép các công ty tư nhân tham gia đấu thầu việc đại diện/quản lý phần vốn nhà nước tại các doanh nghiệp đã cổ phần hoá rồi dần dần sang các doanh nghiệp khác, VN có thể sẽ là quốc gia đầu tiên áp dụng mô hình corporate governance với BSP mới mẻ này. Nếu thành công đó sẽ là điều thực sự đáng tự hào và biết đâu có ngày The Economist sẽ viết về kinh nghiệm của VN cho cả thế giới học tập.

Chữ "nếu" đúng là rất khó, nhất là ở VN, nhưng ở đây không phải impossible.
http://www.economist.com/news/business/21612147-case-outsourcing-company-boards-replacing-board

Wednesday, August 20, 2014

Nhiều người thấy title bài báo này liên tưởng đến cái sân bay trực thăng trong sứ quán Mỹ ngày 30/4/1975, tôi cũng...

Nhiều người thấy title bài báo này liên tưởng đến cái sân bay trực thăng trong sứ quán Mỹ ngày 30/4/1975, tôi cũng vậy. Nhưng ngẫm thêm một chút còn hai vấn đề nữa. 

Thứ nhất, di chuyển bằng máy bay trực thăng trong thành phố thực ra chỉ tiện khi bị kẹt xe, nếu đường xá thông thoáng ngồi Mẹc êm và an toàn hơn (bạn có nhớ mấy vụ trực thăng rơi gần đây không?). Việc UBND TPHCM phải tính đến việc sử dụng trực thăng cho thấy thành phố đã "đầu hàng" vấn nạn này. Đi lại bằng trực thăng để tránh kẹt xe là một hình thức các quan chức chấp nhận "sống chung với lũ".

Thứ hai, nhiều người (trong đó có tôi) cho rằng giải pháp căn cơ cho vấn đề kẹt xe là phải giãn đô thị, mà việc di dời các cơ quan hành chính ra khỏi trung tâm là bước cần thiết đầu tiên. Nếu các quan chức có thể vi vu qua đầu dân thì nên quên cái giải pháp này đi. Hơn nữa nếu họ không phải chịu chung cảnh kẹt xe với dân thì các giải pháp khác cũng sẽ bị lơ là.

Hay ai đó gato với bầu Đức, bầu Hiển?
http://giadinh.net.vn/xa-hoi/se-xay-san-bay-truc-thang-trong-tru-so-ubnd-tphcm-20140819101332652.htm

Tuesday, August 19, 2014

Nói thêm một lần cuối về đề tài giáo dục, hứa sau post này sẽ không "chém gió" nữa :-)

Nói thêm một lần cuối về đề tài giáo dục, hứa sau post này sẽ không "chém gió" nữa :-)

Trong video dưới đây các giáo sư thảo luận về việc có nên bỏ thi tốt nghiệp TPTH hay bỏ thi đại học. Ở đây tôi lại lấy kinh nghiệm của hệ thống giáo dục của bang Queensland (Úc) để đưa ra quan điểm của mình.

Trước hết phải nói thêm một điểm tôi quên chưa nhắc đến trong entry trước. Đó là các trường tiểu học ở Queensland vì không xếp hạng học sinh nên không có khái niệm lên lớp/ở lại lớp giống như VN. Khi một học sinh quá yếu không theo được chương trình nhà trường có thể tư vấn cho phụ huynh để con mình học lại vì sợ rằng nếu lên lớp học sinh đó sẽ tiếp tục không theo được và sẽ có hại về lâu dài cho bản thân em. Việc có cho học lại hay không hoàn toàn do gia đình quyết định.

Nói vậy để thấy giáo dục phổ thông (ở đây từ vỡ lòng đến lớp 10, lớp 11-12 không bắt buộc) không cần/không nên đặt nặng vấn đề điểm số và bằng cấp. Học phổ thông là quá trình gia đình và nhà trường giúp cho trẻ em trang bị kiến thức và kỹ năng tốt nhất có thể, kết quả thế nào phụ thuộc vào năng lực/nỗ lực/điều kiện của từng em. Bởi vậy không cần đánh giá cụ thể một học sinh có "tốt nghiệp" quá trình giáo dục phổ thông hay không, cùng lắm chỉ cần "chứng nhận" em đó đã hoàn tất quá trình giáo dục này.

Giáo dục đại học (hay cao đẳng dậy nghề) thì khác, nó không phải phổ thông và cũng không bắt buộc. Tôi có quan điểm giống với GS Trần Ngọc Anh trong cuộc thảo luận bên dưới cho rằng giáo dục đại học là một sản phẩm thị trường, thuận mua vừa bán. Trong một nền kinh tế thị trường các trường đại học có các phân khúc khác nhau, do vậy việc thi cử đầu vào và tuyển sinh nên để cho các trường tự quyết. Các trường đại học, như một doanh nghiệp, cần lo cho uy tín và sự tồn vong lâu dài của mình nên sẽ phải đảm bảo chất lượng sản phẩm thông qua quá trình tuyển sinh và đánh giá kết quả học tập của sinh viên hàng năm cũng như trước khi cho phép sinh viên tốt nghiệp.

Mỹ thực hiện mô hình tự chủ tuyển sinh nhu vậy, các trường đại học hoàn toàn tự do quyết định nhận ai, loại ai. Đa số các trường outsource một phần quá trình tuyển sinh cho một bên thứ ba (i.e.SAS SAT, GRE, GMAT, TOEFL...) nhưng nói chung họ vẫn phải tự thẩm định và sàng lọc thí sinh rất công phu. Các trường đại học của Úc cũng có quyền tự chủ tương tự, nhưng ở Úc có một khác biệt quan trọng.

Như đã nói bên trên, giáo dục phổ thông không nên/không cần có chứng nhận "tốt nghiệp" bởi vậy vấn đề điểm số trong trường phổ thông không cần đặt ra[*]. Nhưng khi các trường đại học tuyển sinh họ cần biết học lực của thí sinh (ít nhất) trong những năm cuối trung học. Cách mà bang Queensland giải quyết vấn đề này như sau (các bang khác cũng có các hình thức tương tự chỉ khác về tên gọi).

Giáo dục phổ thông bắt buộc chỉ đến lớp 10, lớp 11-12 dành cho những học sinh muốn học tiếp lên đại học. Trong 2 năm này, dù không bắt buộc nhưng gần như tất cả học sinh sẽ đăng ký tham gia hệ thống đánh giá OP (viết tắt của Overall Position) và kết quả OP sẽ được các trường đại học sử dụng cho tuyển sinh tương tự như điểm SAS SAT của Mỹ.

Khi tham gia hệ thống này học sinh 11-12 sẽ phải học một số môn core và được chọn một số môn khác. Các môn này sẽ được chấm điểm (bài tập, kiểm tra cuối kỳ) và tổng kết lại thành một điểm đánh giá duy nhất. Điểm này được hiệu chỉnh để đánh giá mức độ tương đối giữa các học sinh trong cùng một khối lớp trong trường, vd điểm số 80% nghĩa là em đó có kết quả cao hơn 80% các em khác trong khối lớp.

Vấn đề là làm thế nào để đánh giá mức độ tương đối giữa các trường với nhau? Queensland giải quyết vấn đề này bằng cách tổ chức một kỳ thi chung (QCS) cho tất cả các học sinh tham gia OP trong bang. Dựa vào kết quả kỳ thi này, điểm OP của các trường sẽ được hiệu chỉnh để phản ánh mức độ chênh lệch giữa các trường. Ví dụ hai học sinh ở hai trường có OP do trường tính đều bằng 80% thì trường nào có kết quả QCS cao hơn em học sinh trường đó sẽ được xếp OP cuối cùng cao hơn. Đại khái sau 2 lần hiệu chỉnh như vậy điểm OP cuối cùng sẽ là một hình thức xếp hạng học sinh lớp 12 cho toàn bang dựa vào quá trình học trong hai năm 11-12 và kỳ thi QCS.

Việc đánh giá dựa trên cả quá trình học như vậy có lẽ tốt hơn SAS SAT của Mỹ hay thi đại học của VN vì tránh được tình trạng "học tài thi phận" trong một kỳ thi duy nhất. Tuy nhiên hệ thống này tốn công hơn và ở VN sẽ có người lo ngại điểm OP trong nội bộ trường không chính xác, dễ bị thiên vị. Dẫu sao về lâu dài đây là một mô hình VN nên học hỏi. Còn trước mắt tôi ủng hộ phương án bỏ thi tốt nghiệp THPT (thay vào đó cấp chứng chỉ đã học xong phổ thông) và giữ kỳ thi tuyển sinh đại học. Bộ GDĐT có thể outsource kỳ thi này như SAS SAT của Mỹ. Tuy nhiên kết quả kỳ thi đại học chỉ là một yếu tố, các trường có quyền tự do quyết định qui trình tuyển sinh của mình.


[*]: Cách đây vài năm chính phủ liên bang Úc triển khai một kỳ thi toàn quốc ở các lớp năm lẻ (3, 5, 7,...) vào khoảng giữa năm học. Kỳ thi này, gọi là NAPLAN, không bắt buộc và kết quả chủ yếu để đánh giá các trường và so sánh mặt bằng giáo dục giữa các bang chứ không phải để đánh giá từng học sinh.
https://www.youtube.com/watch?v=2A5IoWmUPSc

Tranh thủ chia sẻ thêm một kinh nghiệm giáo dục tiểu học ở đây.

Tranh thủ chia sẻ thêm một kinh nghiệm giáo dục tiểu học ở đây. Trong cuộc thảo luận link bên dưới (phút 21:40) GS Hồ Ngọc Đại nói trường Thực nghiệm của ông không có xếp loại. Các trường tiểu học ở đây cũng vậy, học sinh hầu như không phải làm bài kiểm tra/thi cử, và cuối năm/cuối học kỳ không có xếp loại. Lập luận của họ giống như GS Đại nói, mỗi học sinh có một thế mạnh, không có lý do gì xếp một em giỏi toán trên một em giỏi vẽ. Hãy để mỗi em phát triển thế mạnh của mình và sau này ra đời đi theo thế mạnh đó. Cái này nghe rất giống comparative advantage trong kinh tế học.

Cũng liên hệ với kinh tế học, khi trả lời cho câu hỏi học để làm gì tôi nghĩ cần phải phân biệt giữa micro và macro. Micro, nghĩa là cho mỗi cá nhân, thì học có thể để hiểu biết, có kiến thức sau này ra đời, học để trở thành bản thân mình như GS Hồ Ngọc Đại nói hay học để thi như VTV phàn nàn. Ở mức độ micro, mỗi cá nhân có một mục tiêu riêng và xã hội/các nhà quản lý/báo chí không nên phán xét rồi cố gắng "gò" các em theo một khuôn khổ nào đó. Những lời kêu gọi như "học để làm người" thực ra không khác mấy những khẩu hiệu "xây dựng con người mới XHCN" cách đây vài chục năm.

Ở mức độ macro, câu hỏi học làm gì trở thành chính sách giáo dục phải như thế nào. Nếu bạn theo trường phái neo-classical, câu trả lời sẽ là đừng cố định hướng mà hãy để "bàn tay vô hình" quyết định. Chính sách giáo dục tốt nhất là tạo ra môi trường giáo dục để mỗi học sinh phát huy được thế mạnh của mình. Nhu cầu xã hội, thị trường việc làm sẽ dần dần lái quá trình học tập đến một optimal equilibrium cho xã hội. Không ai có đủ thông tin, kiến thức để có thể lên kế hoạch hàng chục năm cho ngành giáo dục.

Ngược lại, quan điểm Keynesian sẽ khẳng định nhà nước có vai trò (ở một mức độ nào đó) quản lý và định hướng cho nền giáo dục. Ví dụ Bộ GDĐT có thể quyết định triển khai tablet vào các trường vì đây là một skill cần thiết cho tương lai nên phải chuẩn bị. Những lý do như "imperfect information" hay "public good" sẽ được đưa ra để biện minh cho việc nhà nước phải can thiệp vào giáo dục. Tôi sẽ không ngạc nhiên nếu tâm lý Keynesian trong giáo dục phổ biến ở VN.

[Hơi bị méo mó nghề nghiệp một tí :-) ]
https://www.youtube.com/watch?v=5x1vTk3L1Fs

Nhân đọc tin này xin chia sẻ kinh nghiệm đưa máy tính bảng (tablet) vào giảng dạy tại một trường tiểu học nhỏ ở bang...

Nhân đọc tin này xin chia sẻ kinh nghiệm đưa máy tính bảng (tablet) vào giảng dạy tại một trường tiểu học nhỏ ở bang Queensland (Úc) mà các con tôi đang theo học.

Theo tôi biết các trường tiểu học (vỡ lòng đến lớp 6/7) trước đây không cho học sinh sử dụng tablet, chỉ đến khi lên trung học (lớp 7 đến lớp 12) tablet mới được sử dụng trong lớp học (nhưng chủ yếu chỉ ở các trường tư). Các trường và giáo viên tiểu học cho rằng học sinh nhỏ tuổi cần phải được tiếp xúc trực tiếp với thầy cô, bạn bè, sách vở trong những năm đầu đi học. Mà tablet/máy tính/các phương tiện nghe nhìn điện tử cản trở điều này và còn có một số tác hại khác. Ngoài ra chi phí mua tablet cũng là gánh nặng, nhất là với các gia đình đông con.

Cách đây 3 năm hệ thống trường Catholic của bang Queensland quyết định thí điểm đưa tablet vào lớp học ở năm cuối cấp bậc tiểu học. Họ cho rằng ở độ tuổi này học sinh đã đủ lớn để có thể phân biệt thế giới thực với thế giới ảo và các em cần được trang bị một số kỹ năng sử dụng tablet để chuẩn bị cho high school. Việc sử dụng tablet trong lớp cũng khá hạn chế, học sinh chỉ sử dụng một số apps trong list đã được duyệt trước (search, presentation, movie making, arts...) chứ tablet hoàn toàn không phải để thay thế cho sách vở và các môn học truyền thống.

Từ cuối năm lớp 5 (năm lớp 6 học sinh bắt đầu được sử dụng tablet) nhà trường tổ chức một buổi information session cho phụ huynh về việc đưa tablet vào giảng dạy. Họ nói rõ mục đích của việc này là chuẩn bị một số kỹ năng cho các cháu chứ không phải để thay thế lớp học truyền thống (họ phải trấn an nhiều phụ huynh "bảo thủ" không muốn con mình làm "chuột bạch" cho một phương pháp giảng dạy mới). Nhưng điều quan trọng nhất là nhà trường giải thích chi tiết cách thức họ và phụ huynh sẽ cùng nhau giám sát việc học sinh sử dụng table như thế nào.

Nguyên tắc căn bản là tablet chỉ được sử dụng cho việc học, không được cài games và các apps khác ngoài list đã được duyệt trước. Tất cả các hình thức social networks (Facebook, Snapchat, Whatsapp...) đều bị cấm. Mỗi học sinh được cấp một email theo domain của trường và email này chỉ được sử dụng cho mục đích trao đổi học tập với giáo viên và giữa các học sinh với nhau, các cháu không được sử dụng email cho mục đích cá nhân. Mỗi tablet có một PIN code riêng, giáo viên chủ nhiệm và phụ huynh biết để có thể access vào kiểm tra bất kỳ lúc nào. Hệ thống mạng ở trường được cài content filter/firewall để ngăn không cho học sinh truy cập các nội dung/hình ảnh không tốt.

Nhà trường đưa ra 3 phương án trang bị tablet, bắt buộc phải là iPad để thống nhất apps và chất lượng/cấu hình. Phương án thứ nhất là gia đình nào có điều kiện thì tự mua (400-800 AUD), nhưng gia đình phải quán triệt đó là tablet dành riêng cho việc học ở trường nên không được sử dụng cho các mục đích giải trí khác ở nhà. Phương án thứ hai là học sinh được cho mượn table của trường trong năm học đó nhưng phải đóng bảo hiểm (khoảng 150 AUD/năm). Các cháu được sử dụng trong 1 năm và được đem về nhà nhưng cuối năm phải trả lại. Phương án ba, dành cho những gia đình thực sự khó khăn, cũng là cho mượn một năm nhưng nhà trường sẽ liên hệ với các tổ chức từ thiện để họ giúp đóng tiền bảo hiểm.

Theo dõi cháu lớn nhà tôi sử dụng tablet trong hơn nửa năm qua nhìn chung tôi thấy tương đối ổn. Cháu khá responsible trong việc lướt web và email. Đã biết sử dụng các apps cần cho việc học hành (dictionary, presentation...), đặc biệt các apps liên quan đến creativity rất có ích. Thời gian sử dụng tablet cũng vừa phải, dù có lúc vẫn lén đem vào giường trùm chăn đọc sách. Tôi nghĩ việc đưa tablet vào trường học là cần thiết nhưng phải hết sức cẩn trọng, cả về phía gia đình lẫn nhà trường, và không nên cho các cháu quá nhỏ.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140819/moi-hoc-sinh-tieu-hoc-phai-sam-mot-may-tinh-bang.aspx

Monday, August 18, 2014

Bài này nói rất đúng, một khi đại học đã là "phi lợi nhuận" thì không có ai là cổ đông và không thể có chuyện "chia...

Bài này nói rất đúng, một khi đại học đã là "phi lợi nhuận" thì không có ai là cổ đông và không thể có chuyện "chia cổ tức". Cái mác "phi lợi nhuận" của các trường tư thục ở VN là giả mạo xét theo tiêu chuẩn quốc tế (phương Tây) nhưng đáng tiếc là hợp pháp ở VN theo luật GDDH 2013 và các văn bản sau đó.

Giải pháp của bài báo tách biệt đại học tư thục vì lợi nhuận hoạt động theo luật Doanh nghiệp với đại học phi lợi nhuận là hoàn toàn chính xác. Điểm mà bài báo còn thiếu là cơ chế chuyển đổi những đại học tư thục "phi lợi nhuận" hiện tại sang 2 hình thức đại học nói trên. Theo tôi có 3 cách giải quyết như sau:

Bail-out: Nhà nước hoặc các mạnh thường quân bỏ tiền ra mua lại cổ phần của các nhà đầu tư hiện đang nắm giữ cổ phiếu của đại học tư thục. Giá mua được tính theo số vốn họ đã bỏ ra và lãi suất trái phiếu chính phủ trong thời gian họ nắm giữ cổ phần. Có thể khuyến khích các nhà đầu tư chấp nhận bail-out bằng cách miễn thuế thu nhập.

Bail-in:  Các nhà đầu tư mua lại phần tích lũy không chia (thuộc về cộng đồng) sau khi tài sản của trường được định giá và kiểm toán lại. Một cách khác là họ mua lại những ưu đãi (đất đai, lãi suất) mà trường đã được hưởng trong thời gian qua.

Give-away: Nhà nước cho luôn các nhà đầu tư hiện tại toàn bộ tài sản của trường, kể cả phần tích lũy không chia trước đây và các ưu đãi trường đã được hưởng. Tuy nhiên họ phải chịu thuế capital gain cho phần giá trị gia tăng của đại học trong thời gian qua. Khoản thuế này đánh ngay lập tức lên chênh lệch giữa giá thị trường hiện tại của đại học với số tiền họ bỏ vào đầu tư ban đầu. Quốc hội có thể ra một nghị quyết đưa ra mức thuế đặc biệt cho khoản thuế này, vd 75%.

Các nhà đầu tư có 1 năm để chọn một trong ba phương án, nếu họ không thỏa thuận đươc với nhau thì phương án 1 sẽ là default. Sau đó tất cả các đại học tư thục sẽ phân chia thành đại học vì lợi nhuận và đại học phi lợi nhuận như bài báo bên dưới đề nghị. Luật GDDH sẽ được sửa lại để đảm bảo đúng tinh thần phi lợi nhuận.
http://www.thesaigontimes.vn/118825/Truong-dai-hoc-la-cua-ai?.html

Wednesday, August 13, 2014

Tôi được giới thiệu đọc bài dưới đây để giải đáp thắc mắc trong entry trước về tỷ lệ cổ tức của ĐH Hoa Sen (HSU).

Tôi được giới thiệu đọc bài dưới đây để giải đáp thắc mắc trong entry trước về tỷ lệ cổ tức của ĐH Hoa Sen (HSU). Dù bài báo có khá nhiều thông tin hữu ích tôi vẫn chưa thực sự đánh giá được con số cổ tức 30% mà các cổ đông của HSU đòi là cao hay thấp và nhận định của GS Trần Văn Thọ cho rằng mức cổ tức như vậy quá cao đúng hay sai. Có lẽ phải nhờ bạn nào đó có annual reports của HSU gửi cho tham khảo.

Trong khi chờ có balance sheets, tôi tạm thời phân tích số liệu trong cái box bên dưới bài báo của TBKTSG. Lưu ý phân tích của tôi phải sử dụng một số giả định mà chắc chắn không chính xác nên chỉ có tính chất tham khảo, tôi cũng không tính đến việc nhà nước đã trợ giúp HSU thông qua giao đất hay cho vay lãi suất thấp vì không có số liệu cụ thể.

Giả định đầu tiên là phần tăng vốn điều lệ hàng năm trong giai đoạn 2006 - 2014 hòa toàn là retained earning của năm trước đó. Tạm thời coi earning và capital tăng linear trong những năm không có số liệu (i.e. giữa 2006 với 2010 và 2010 với 2013). Như vậy vốn điều lệ trong giai đoạn 2006-2014 như sau (tỷ đồng):

2006: 15
2007: 18.75
2008: 22.5
2009: 26.25
2010: 30
2011: 43.97
2012: 57.93
2013: 71.9
2014: 93.9 

Retained earning qua các năm:

2006: 3.75 
2007: 3.75
2008: 3.75
2009: 3.75
2010: 13.97
2011: 13.97
2012: 13.97
2013: 22

Giả sử toàn bộ after tax profit của HSU là retained earning (chắc chắn con số profit thật phải lớn hơn nhiều) thì tỷ lệ sinh lời trên vốn điều lệ là:

2006: 25%
2007: 20%
2008: 16.7%
2009: 14.3%
2010: 46.6%
2011: 31.8%
2012: 24.1%
2013: 30.6%

Tỷ lệ lợi nhuận như vậy rất cao và tất nhiên các nhà đầu tư đã thành công trong thương vụ bỏ vốn vào HSU năm 2006. Sự thành công này phản ánh business plan của họ và việc lựa chọn excecutives (ở đây là ban giám hiệu) đúng đắn. Bất kỳ private equity manager nào cũng mơ ước tìm được những opportunity đầu tư nhu vậy.

Với một "doanh nghiệp" có lợi nhuận và tăng trưởng tốt như vậy (growth company), valuation thường rất cao, nghĩa là PE ratio cao. Cứ giả sử PE cho HSU vào khoảng 15, khá khiêm tốn so với PE của các growth company, thì market value cho HSU sẽ là:

2006: 56.25
2007: 56.25
2008: 56.25
2009: 26.25
2010: 209.5
2011: 209.5
2012: 209.5
2013: 330

Nghĩa là price/book ratio khoảng từ 2 đến 7 lần . Cũng có nghĩa là nếu cổ tức 30% tính theo vốn điều lệ thì khi hiệu chỉnh lại theo market value sẽ là 4.3% đến 15%. Như vậy cũng không có gì quá đáng so với mặt bằng lãi suất của VN trong những năm vừa qua.

Xin nhắc lại tôi hoàn toàn không bênh vực phe cổ đông, những tính toán ở đây chỉ có tính tham khảo làm rõ thêm một điểm trong entry trước phản biện bài viết của GS Trần Văn Thọ.
http://www.thesaigontimes.vn/118476/Vu-Dai-hoc-Hoa-Sen-Cac-goc-nhin-khac-nhau.html

Đọc về vụ tranh chấp giữa ĐH Tôn Đức Thắng với GS Nguyễn Đăng Hưng tôi thấy có nhắc đến TS Lê Văn Út.

Đọc về vụ tranh chấp giữa ĐH Tôn Đức Thắng với GS Nguyễn Đăng Hưng tôi thấy có nhắc đến TS Lê Văn Út. Ngờ ngợ vì trong bài về cuộc tranh luận giữa GS Phạm Quang Tuấn và GS Stein Tonnesson (http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/07/stein-tonnesson-vs-pham-quang-tuan.html) tôi đã biết cái tên này. Lần mò vào website của ĐH TĐT để kiểm tra hóa ra đúng thật, TS Lê Văn Út ở Phần lan trước đây đã về làm việc tại ĐH TĐT.

Nhưng điều làm tôi ngạc nhiên là khi lọ mọ vào trang web của Ban giám hiệu đại học này tôi thấy CV của hiệu trưởng trường "NGƯT., GS.TS. Lê Vinh Danh" có một dòng như sau:

"24/01/2013, được Ban tổ chức Trung ương Đảng bổ nhiệm ngạch Giảng viên cao cấp."

Không biết trang CV này có nhầm lẫn gì không chứ hà cớ gì Ban Tổ chức Trung ương Đảng lại đi bổ nhiệm cán bộ cho một trường đại học? Đó là chức năng của Bộ GDĐT chứ?
http://www.tdt.edu.vn/index.php/gioi-thieu/ban-giam-hieu

Tuesday, August 12, 2014

Nói thêm về vụ ngoại giao "mắt chớp chớp", biết đâu sẽ đi vào lịch sử như ngoại giao "bóng bàn" trước kia.

Nói thêm về vụ ngoại giao "mắt chớp chớp", biết đâu sẽ đi vào lịch sử như ngoại giao "bóng bàn" trước kia.

Trước hết trong tiếng Anh kiểu "bắt tay" như vậy của 2 ông ngoại trưởng Mỹ-Việt gọi là high five. Đây là một kiểu "bắt tay" của những người chơi thân và biết nhau lâu, không phải là dạng bắt tay xã giao khi gặp mặt hay từ biệt. Với cử chỉ high five này, John Kerry và Phạm Bình Minh tỏ ra họ (và ám chỉ quan hệ Mỹ-Việt) đã rất thân thiết.

Thứ hai nếu ai xem thể thao Mỹ thường xuyên (bóng rổ, bóng chày...) sẽ thấy các cầu thủ cùng đội hay high five nhau sau khi ghi điểm, đặc biệt là các pha ghi điểm ngoạn mục. Không rõ 2 ông ngoại trưởng này đã cùng nhau ghi được điểm gì mà mừng rỡ high five với nhau thế?

Thứ ba, tôi nghĩ hành động "mắt chớp chớp" của ông Phạm Bình Minh không phải do "e lệ" hay "ngượng ngùng" với John Kerry mà đó là một cái nháy mắt tinh quái ngầm nói "nó mắc bẫy tụi mình rồi". Nó ở đây là ai thì chắc mọi người đều đoán được.

Nội dung cuộc họp ngoại trưởng ASEAN vừa rồi không có gì bí mật, nên việc cặp đôi Kerry-Minh đã ghi được bàn gì và đã gài bẫy gì chắc không khó kiểm chứng. Có khả năng điểm và bẫy cũng chẳng quan trọng mà cái chính là màn trình diễn high five và "mắt chớp chớp" (có khi đã được chuẩn bị công phu) này biết đâu sẽ mở ra một thời kỳ ngoại giao mới giữa hai nước. Thì cứ hi vọng đi đã!

Update: Vì đọc cẩu thả nên tôi không để ý tác giả bài viết bên dưới là Phạm Việt Vinh chứ không phải nhà văn Phạm...

Update: Vì đọc cẩu thả nên tôi không để ý tác giả bài viết bên dưới là Phạm Việt Vinh chứ không phải nhà văn Phạm Thị Hoài dù bài viết đăng trên pro&contra, bởi vậy tôi đã phê bình sai địa chỉ. Thành thật xin lỗi nhà văn Phạm Thị Hoài và các bạn. Dù sao tôi vẫn cho rằng trích dẫn thông tin của Thời báo Hoàn cầu về việc lãnh đạo VN xin được làm một khu vực tự trị của TQ cũng "rẻ tiền" không kém trích dẫn Komsomolskaya Pravda về việc MH17 bị Su25 của Ukraine bắn hạ.


Tác giả bài "Sự thật của sự thật rẻ tiền" mà lại trích dẫn "hội nghị Thành Đô" thì kể cũng trái khoáy nhỉ.

Bạn nào biết tiếng Trung làm ơn search lại Thời báo Hoàn cầu xem đoạn trích dẫn đó có tồn tại hay không, tác giả là ai hay là một anonymous commenter, nguồn ở đâu (tôi không tin chính quyền TQ đã giải mật những tài liệu liên quan đến hội nghị này), và nếu có thông tin đó thật đoạn dịch tiếng Việt có chính xác không.
http://www.procontra.asia/?p=4721

Monday, August 11, 2014

Bài này của GS Trần Văn Thọ có một số vấn đề.

Bài này của GS Trần Văn Thọ có một số vấn đề. Thứ nhất cần phân biệt giữa "giáo dục" với "giáo dục đại học", tôi nghĩ GS Thọ muốn nói về khái niệm thứ hai. Còn về giáo dục chung chung không có lý do gì ngăn cản các nhà đầu tư kinh doanh giáo dục mẫu giáo, tiểu học... Rất nhiều trường tiểu học, trung học tư vì lợi nhuận đang hoạt động hiệu quả ở VN và trên toàn thế giới. Thực ra đây là điều nên khuyến khích.

Thứ hai, ngay cả giáo dục đại học cũng không hẳn là "vùng cấm địa" với các nhà đầu tư muốn kiếm tiền. Trên thế giới khó có thể kiếm được một trường đại học tư vì lợi nhuận có tiếng, nhưng như vậy không có nghĩa những "doanh nghiệp" trong ngành dịch vụ này không đem lại lợi ích cho xã hội và phải loại trừ/tẩy chay. Doanh nghiệp có các phân khúc thị trường khác nhau thì đại học cũng vậy. Cách đây chưa lâu tôi có link một bài của The Economist về hệ thống đại học tư vì lợi nhuận của Brazil rất thành công cả về mặt tài chính lẫn chất lượng đào tạo.

Thứ ba, tôi muốn nhờ các bạn am hiểu vấn đề tài chính của Hoa Sen làm rõ yêu cầu 20-30% cổ tức mà các cổ đông đòi hỏi là tính trên vốn điều lệ hay owners' equity. Vì qui định rất lạc hậu của VN buộc phải phân biệt 2 loại vốn này (face vs market value) nên nhiều khi một công ty chia cổ tức 20-30% (thậm chí 100%) tính theo vốn điều lệ thực ra chỉ 4-5% nếu tính theo market value. Tôi không bênh vực phe cổ đông HS nhưng tôi muốn làm rõ vấn đề này.

Cuối cùng, tôi cho rằng "vấn nạn" của đại học VN (cả công lẫn tư) là ở chỗ Bộ GDĐT quản rất chặt đầu vào của các đại học (chỉ tiêu, thi tuyển) nhưng gần như không giám sát được chất lượng đầu ra, vô hình chung trao monopoly power cho các trường đang hoạt động. Vì nhu cầu nhân lực có trình độ đại học ở VN rất lớn và chất lượng sản phẩm được thả nổi nên kinh doanh đại học trở thành một ngành dịch vụ siêu lợi nhuận nếu chạy được giấy phép và chỉ tiêu, ngay cả chưa tính đến các ưu đãi về thuế và đất đai.

Ở các đại học công, phần lớn lợi nhuận đó chảy vào túi của giảng viên/cán bộ của trường (tôi tin thu nhập trung bình của giảng viên đại học tại VN cao hơn nhiều mặt bằng xã hội). Ở các đại học tư cổ đông, với vai trò là chủ sở hữu, sẽ tìm cách lấy phần lợi nhuận đó thông qua cổ tức/cổ phiếu thưởng và sẽ có lúc gây ra tranh chấp với giảng viên/ban giám hiệu như trường hợp HS. Nếu giảng viên/BGH bị đẩy vào vị trí người làm thuê thuần túy, chất lượng càng ngày càng giảm là điều không tránh khỏi.

Như vậy một biện pháp quan trọng cải tổ giáo dục đại học VN và để tránh những vụ HS trong tương lai là Bộ GDĐT phải thay đổi phương thức quản lý các trường đại học. Cụ thể là thả đầu vào nhưng siết đầu ra để nâng cao chất lượng đào tạo (ở đây tôi không bàn về academic freedom là một vấn đề hoàn toàn khác). Tất nhiên chất lượng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhưng một trong những biện pháp mà Harvard Business School (trước đây, tôi không rõ bây giờ còn không) đã làm là mỗi kỳ thi luôn đánh rớt bottom 10% sinh viên. Không phải tôi cổ súy cho biện pháp này, cần phải có một nghiên cứu thấu đáo về cách siết đầu ra, nhưng đó là một ví dụ cho thấy mục tiêu này có thể làm được.

Một biện pháp khác là xây dựng một/vài bảng ranking cho các trường đại học, tương tự như credit rating của giới tài chính. Một trường đại học có rating AAA sẽ có chất lượng đào tạo tốt hơn những trường B1 hay B2. Với tôi nếu một nhà đầu tư xây dựng được một trường tư vì lợi nhuận có rating AAA xã hội nên khuyến khích. Có điều các bảng rating đó không nên do Bộ GDĐT thực hiện mà nên của một công ty tư nhân hay tổ chức xã hội đảm nhiệm.

Mặc dù tôi cho rằng mô hình trường tư phi lợi nhuận (như Harvard hay Waseda của GS Thọ) là tối ưu cho giáo dục đại học và VN cần hướng tới, những trường tư vì lợi nhuận như HS hay RMIT vẫn có chỗ đứng và vẫn có đóng góp quan trọng cho xã hội. Tôi đã có lần trao đổi với một người bạn về những biện pháp tài chính có thể sử dụng để tạo ra ownership structure tư nhân nhưng không quá intrusive vào hoạt động academic, vd sử dụng preferred shares hay options/warrants. Có điều chừng nào Bộ GDĐT chưa thay đổi tư duy/cách thức quản lý thì bàn bạc cải tổ chỉ là viển vông.

Dù rất kính trọng GS Thọ, về cơ bản tôi không đồng ý với quan điểm của bài báo này. Vấn nạn của đại học VN không phải là lòng tham của giới đầu tư mà là tư duy quản lý.
http://tuoitre.vn/Giao-duc/622756/muon-kinh-doanh-nen-tranh-xa-giao-duc.html

Willem Buiter, một cựu econblogger rất nổi tiếng và hiện đang là chief economist của Citigroup, đưa ra thuật ngữ...

Willem Buiter, một cựu econblogger rất nổi tiếng và hiện đang là chief economist của Citigroup, đưa ra thuật ngữ "qualitative easing" để ám chỉ chính sách tiền tệ hiện nay của TQ. Thay vì tăng số lượng assets trên balance sheet (quantitative easing), PBoC giảm chất lượng của assets trong khi vẫn giữ số lượng. Cách làm này giúp TQ target credit vào một số ngành mà họ cho là có tác dụng lớn tới công ăn việc làm và giảm poverty (vd nông nghiệp, SMB).

Tôi nhớ NHNN/chính phủ đã vừa khuyến cáo vừa ép các ngân hàng phải tăng trưởng tín dụng, cũng có một số chương trình target vào nông nghiệp và SMB. Nhưng VN chưa thực sự tiến hành "qualitative easing" có lẽ do NHNN còn phải ưu tiên support cho trái phiếu chính phủ. Vì thâm hụt ngân sách và cashflow của chính phủ quá yếu nên nhu cầu phát hành trái phiếu rất cao. Nếu vừa muốn thực hiện qualitative easing vừa đảm bảo mua vào một lượng lớn trái phiếu chính phủ thì sẽ phải kết hợp cả qualitative lẫn quantitative, mà như vậy rủi ro lạm phát sẽ rất cao.
http://blogs.wsj.com/economics/2014/08/11/how-chinas-trying-to-boost-its-economy-qualitative-easing/?mod=WSJ_EC_RT_Blog

Mấy hôm nay giới finance đang xôn xao về đề xuất của Anat Admati, giáo sư kinh tế tại Stanford, bắt ngân hàng phải...

Mấy hôm nay giới finance đang xôn xao về đề xuất của Anat Admati, giáo sư kinh tế tại Stanford, bắt ngân hàng phải tăng equity lên ít nhất 30% total assets. Hiện tại ngay cả theo Basel III chỉ yêu cầu tier I capital 6% (và một số buffer không quá 5% nữa). Tất nhiên yêu cầu này không thực tế và sẽ bị cả giới ngân hàng lẫn chính trị gia chống đối (như thông tin trong bài bên dưới), nhưng nó cho thấy một khuynh hướng bank regulation đang dần dần hình thành.

Trước đây mấy tháng John Cochrane đã khởi xướng một cuộc tranh luận về 100% reserve banking, về cơ bản là tách hoạt động giữ tiền (transaction account) ra khỏi lending (100% capital ratio). Yêu cầu này tất nhiên còn khó hơn cả đề xuất của Admati và sẽ xóa bỏ hoàn toàn hệ thống fractional reserve banking (FRB) mà tôi cho là một trong những economic innovations quan trọng nhất trong lịch sử. Nhưng lập luận của Cochrane khá thuyết phục khi cho rằng những lợi ích của FRB đang được thay thế dần bằng các sản phẩm tài chính của shadow banking, mà shadow banks là 100% capital ratio institutions.

Có thể giải pháp của Admati sẽ là bước trung gian để chuyển từ hệ thống banking hiện tại (theo Basel III) sang 100% reserve/100% capital như Cochrane đề xuất. Trước mắt implication của những ý tưởng này là banks càng có capital ratio càng cao càng tốt. Tôi vẫn khuyến cáo NHNN chú trọng vào chỉ tiêu này thay vì độ lớn của vốn điều lệ.
http://www.businessinsider.com.au/admati-bankers-new-clothes-book-2014-8

Tình cờ thấy đoạn video này, điều làm tôi sửng sốt là security cho thủ tướng kém thế.

Tình cờ thấy đoạn video này, điều làm tôi sửng sốt là security cho thủ tướng kém thế. Trên thế giới đã có rất nhiều trường hợp bom khủng bố kích nổ bằng điện thoại di động rồi.
https://www.youtube.com/watch?v=sL0kHzSa5aY

Ngoại giao "mắt chớp chớp":

Ngoại giao "mắt chớp chớp":

"Ông Kerry với ông Minh bắt tay một kiểu rất lạ: ông Minh vẫn ngồi (mắt chớp chớp) giơ tay phải, còn ông Kerry giơ tay trái, không phải bắt mà hai tay nhập vào nhau như hai tuổi teen gặp nhau ngoài đường."
http://www.rfa.org/vietnamese/in_depth/asean-cn-maritime-ambiti-08112014063735.html

Sunday, August 10, 2014

Vấn đề công ty quản lý quĩ Lộc Viết chỉ có 25 tỷ vốn điều lệ nhưng được ủy thác đầu tư đến 3744 tỷ (150 lần vốn điều...

Vấn đề công ty quản lý quĩ Lộc Viết chỉ có 25 tỷ vốn điều lệ nhưng được ủy thác đầu tư đến 3744 tỷ (150 lần vốn điều lệ) thực ra không có gì bất thường. Tỷ lệ cỡ vài trăm lần trong giới fund management quốc tế khá bình thường. Vấn đề là tên tuổi và kinh nghiệm của Lộc Việt thế nào mà được ủy quyền nhiều như vậy mới là điều phải đặt dấu hỏi.
http://www.thesaigontimes.vn/118590/Chuyen-%E2%80%9Cbep-nuc%E2%80%9D-Ngan-hang-Xay-dung.html

Sứ quán Úc vừa có statement về vụ court order bị Wikileak tiết lộ.

Sứ quán Úc vừa có statement về vụ court order bị Wikileak tiết lộ. Như vậy tôi đã sai khi cho rằng chính phủ Úc sẽ không dám nhắc đến bản lệnh tòa này vì nó bị cấm. Nhưng cách mà ĐSQ Úc đề cập đến rất khôn khéo, họ chỉ nói về suppression orders chung chung chứ không nói cụ thể order bị Wikileak lộ ra (lưu ý orders ở dạng số nhiều). Mặc dù các cụm từ  "suppression orders in question" hay "named figures" ngụ ý rất rõ về bản order đó, xét chi tiết câu chữ bản statement không vi phạm lệnh tòa.

Bản statement này nêu rõ 2 điểm mà tôi đã phân tích trong một entry trước (https://plus.google.com/112488760986970926997/posts/ThcfGEVfqPD). Thứ nhất lệnh tòa (suppression orders) do đại diện chính phủ Úc tại tòa đề nghị (application of the Australian Government). Lưu ý chữ application nghĩa là chính phủ Úc chỉ xin, còn quyền có cho phép hay không thuộc về tòa. Thứ hai những tên tuổi nêu trong order đó không có nghĩa họ bị kết tội, thậm chí chưa chắc có bằng chứng gì chứng tỏ họ bị liên quan đến vụ hối lộ. Những lời giải thích trong bản statement này thực ra chỉ là một dạng legal advice chung chung của một bên thứ ba (có hiểu biết) cho một người nêu ra thắc mắc (thiếu hiểu biết).

Tôi có một cuộc trao đổi rất thú vị với bạn Nham Hoa (https://www.facebook.com/le.nguyenmy/posts/10201551517384725?comment_id=10201553362310847) về vai trò của ĐSQ Úc trong vụ lùm xùm này. Quan điểm của tôi (trong trường hợp cụ thể này) là ĐSQ Úc đại diện cho chính phủ Úc chứ không liên quan gì đến Supeme Court of Victoria, còn bạn Nham Hoa cho rằng theo Công ước Vienna ĐSQ là đại diện cho state (nhà nước), nghĩa là cho cả ba nhánh lập pháp/hành pháp/tư pháp. Bản Statement của ĐSQ Úc tại HN cho thấy họ đã trả lời thay cho chính phủ chứ không phải đại diện cho nhà nước Úc. Lưu ý cách trả lời rất khéo, vừa không đề cập trực tiếp đến bản lệnh tòa bị cấm vừa giữ được quan hệ ngoại giao (không chơi xỏ VN như tôi suggest trong entry trước nếu nói ĐSQ Úc từ chối comment về một tin đồn trên internet).

Một chi tiết thú vị nữa là bản statement rất khôn khéo không đề cập đến công hàm mà BNG VN đã gửi cho phía Úc (http://www.mofa.gov.vn/vi/nr040807104143/ns140807115515) mà nói rằng nó (bản statement) chỉ làm rõ những vấn đề mà báo chí đã đăng về thông tin trong cuộc họp giữa BNG VN và đại sứ Úc. Nghĩa là đây không phải là trả lời chính thức của Úc về công hàm của BNG VN như một số báo chí VN đưa tin. Nó chỉ đơn thuần là một lời "nói lại cho rõ" của ĐSQ/chính phủ Úc với báo chí VN thôi. Nếu trả lời chính thức ĐSQ Úc phải gửi công hàm cho BNG VN mà tôi nghĩ sẽ không xảy ra.

Vụ này là một case xử lý khủng hoảng rất thú vị mà các bạn làm trong ngành ngoại giao nên học hỏi.
http://www.vietnam.embassy.gov.au/hnoi/home.html

Thursday, August 7, 2014

Vừa comment về chuyện này trên FB của Le Nguyenmy...

Vừa comment về chuyện này trên FB của Le Nguyenmy (https://www.facebook.com/le.nguyenmy/posts/10201551517384725?comment_id=10201553362310847) mới ngẫm ra BNG VN chơi xỏ chính phủ Úc quá thể.

Vấn đề là nếu thông tin của Wikileak chính xác thì bản thân cái lệnh toà đó cũng là thông tin bị toà tối cao Victoria cấm nói đến. Lệnh toà này áp dụng cho tất cả các đối tượng nằm trong jurisdiction của toà, không chỉ bao gồm báo chí và công dân Úc mà cả chính phủ Úc. Như vậy chính phủ Úc không được nhắc đến nó thì làm thế nào mà trả lời công hàm của BNG VN được.

Có lẽ chính phủ/BNG Úc chỉ còn một cách trả lời duy nhất là chúng tôi không comment về các tin đồn trên mạng Internet. Nhưng nếu thế chẳng hoá ra BNG VN gửi một cái công hàm phản đối chỉ dựa trên tin đồng trên mạng thôi à?
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140807/viet-nam-phan-doi-toa-an-uc-ra-lenh-kiem-duyet-trong-vu-in-tien-polymer.aspx

Tuesday, August 5, 2014

Thủ tướng của Chính phủ Hoàng gia Lào lưu vong Khamphoui Sisavatdy muốn thực hiện những điều sau:

Thủ tướng của Chính phủ Hoàng gia Lào lưu vong Khamphoui Sisavatdy muốn thực hiện những điều sau:

- To end the Communist dictatorial regime in the Kingdom of Laos;
- To end Vietnamese Communist colonialism and present Vietnamization in the Kingdom of Laos;
- To restore the national territorial integrity and national independence of the Kingdom of Laos;
- To promote freedom, democracy, rule of law, human rights, and human dignity for all Lao citizens;
- To end the illegitimate and Communist orientated Lao-Viet special Brotherhood Treaty of July 18, 1977.
http://thediplomat.com/2014/07/interview-laos-prime-minister-in-exile

Monday, August 4, 2014

Tôi có thói quen hàng tuần mở mục Obituary của The Economist ra đọc.

Tôi có thói quen hàng tuần mở mục Obituary của The Economist ra đọc. Mỗi tuần tờ tạp chí này có một bài tưởng niệm một người nổi tiếng vừa qua đời, thường là các chính trị gia, nghệ sĩ, nhà bác học có cống hiến lớn, nhưng đôi khi có cả các nhà độc tài, tội phạm chiến tranh. Đọc mục này để biết thêm về những cá nhân đã góp phần định hình thế giới hiện tại.

Tuần rồi mục này viết về Joep Lange, một chuyên gia hàng đầu thế giới về AIDS và là một nạn nhân trên chuyến bay MH17. The Economist gọi ông là "martyr" (thánh tử đạo?), tất nhiên không phải vì ông chết trong cuộc chiến giữa chính phủ và phiến quân Ukraine, ông mất trong cuộc chiến của nhân loại chống lại bệnh AIDS.

Là một nhà khoa học rất nổi tiếng, khám phá ra những phương pháp kiềm chế HIV hiệu quả, đã từng giữ chức chủ tịch Hiệp hội AIDS quốc tế, đang điều hành quĩ PharmAccess giúp đem thuốc trị HIV cho châu Phi. Trong 10 năm lại đây, nhờ những phát kiến của các chuyên gia AIDS trong đó Joep Lange đóng vai trò rất quan trọng, số bệnh nhân tử vong vì căn bệnh này đã giảm từ 2.4m xuống 1.5m/năm.

Một trong những nghiên cứu cuối cùng của ông nhằm tìm ra phương pháp ngăn virus HIV bám vào các tế bào trong cở thể người bệnh đang mở ra một triển vọng mới trong cuộc chiến này. Trước khi bước lên MH17 ngày 17/7 ông nhắn tin cho một người bạn nói rằng chắc ông sẽ không ngủ được trên chuyến bay nên sẽ làm việc về nghiên cứu đó. Quả tên lửa định mệnh bắn lên khi ông đang cầm bút chiến đấu với căn bệnh đã giết 39 triệu người trong 3 chục năm qua. Đó là lý do The Economist gọi ông là martyr.

PS. Trong mấy năm gần đây mục Obituary của The Economist có nhắc đến 2 người Việt: Võ Nguyên Giáp và Nguyễn Chí Thiện.
http://www.economist.com/news/obituary/21608567-joseph-marie-albert-lange-aids-researcher-died-july-17th-aged-59-joep-lange

Sunday, August 3, 2014

PMI tháng 7 của VN giảm xuống 51.7 (từ 52.3 tháng trước), đây là tháng thứ 3 liên tiếp chỉ số này sụt giảm.

PMI tháng 7 của VN giảm xuống 51.7 (từ 52.3 tháng trước), đây là tháng thứ 3 liên tiếp chỉ số này sụt giảm. Tuy nhiên cần lưu ý khi chỉ số này lớn hơn 50 nghĩa nền kinh tế vẫn tăng trưởng (ít nhất với manufacturing sector). Trong các subindex chỉ có New Export Orders và Employment là cải thiện, trong khi cả New Orders lẫn Output đều kém tháng trước.

Nếu số liệu PMI chính xác, dường như nhưng domestic demand đang yếu đi trong khi export sector vẫn tăng trưởng tốt và là nơi tạo ra công ăn việc làm. Điều này có vẻ trái ngược với những nhận định cho rằng XNK của VN sẽ bị tác động xấu của vụ HD-981 làm quan hệ Việt-Trung căng thẳng.

Một điểm thú vị nữa là Input Prices tiếp tục tăng mạnh và có vẻ doanh nghiệp đang tích trữ nguyên vật liệu đầu vào trong khi Output Prices tăng không đáng kể. Kết hợp với chi phí nhân công gia tăng điều này cho thấy lợi nhuận của doanh nghiệp đang giảm. Vậy nhưng VN-Index vẫn tăng khá tốt trong 3 tháng qua, bất chấp cả giàn khoan lẫn lợi nhuận.

Mấy hôm trước nhà văn Phạm Thị Hoài đặt câu hỏi: "Bao nhiêu bản đồ thì đủ?" Câu hỏi này không chỉ liên quan đến một...

Mấy hôm trước nhà văn Phạm Thị Hoài đặt câu hỏi: "Bao nhiêu bản đồ thì đủ?" Câu hỏi này không chỉ liên quan đến một quyển sách về bản đồ cổ được xuất bản gần đây với đầy lỗi mà còn đụng chạm đến một vấn đề khác quan trọng hơn nhiều: liệu VN có đang đi đúng hướng chuẩn bị tài liệu và lập luận cho một vụ kiện TQ về vấn đề BĐ-HS-TS?

Nhiều người Việt (trước đây tôi cũng vậy) rất hồ hởi khi ai đó tìm ra được một bản đồ cổ thể hiện HS-TS là của VN. Tôi có cảm giác giới chuyên gia Việt hầu như chỉ tâp trung vào lĩnh vực này, sưu tầm bản đồ, tài liệu cổ để chứng minh chủ quyền của mình trên HS-TS trong giai đoạn trước thế kỷ 20. Giới luật gia quốc tế gọi cách tiếp cận này là sử dụng "historical title".

Như tôi đã giải thích trước đây UNCLOS không chấp nhận khái niệm "historical title" (trừ một số trường hợp rất hãn hữu) bởi vậy hướng đi này chủ yếu nhắm đến việc kiện đòi lại chủ quyền HS-TS chứ không phải tranh chấp ranh giới biển với TQ. Tuy nhiên áp dụng historical title trong tranh chấp chủ quyền HS-TS cũng có những hạn chế mà bài báo dưới đây chỉ ra.

Thứ nhất, nói gì thì nói luật pháp quốc tế về cơ bản dựa trên nền tảng luật phương Tây nên những bằng chứng, lập luận về "historical title" theo truyền thống phương Đông (của cả VN lẫn TQ) đều có thể không phù hợp. Có học giả quốc tế cho rằng  thậm chí khái niệm quốc gia và chủ quyền (nhất là chủ quyền trên các hòn đảo xa bờ) ở châu Á trước khi người da trắng đến rất mơ hồ và không phù hợp với những khái niệm hiện đại. Bởi vậy những bản đồ, chiếu chỉ, gia phả cổ có thể không có nhiều giá trị như chúng ta vẫn tưởng.

Thứ hai, ngay cả nếu "historical title" của VN được chứng minh và thừa nhận, để đảm bảo chủ quyền không bị mất VN phải chứng minh được đã thực thi chủ quyền trên HS-TS một cách liên tục và hiệu quả. Việc cử hải đội ra khai thác trên các hòn đảo này không chắc đã đủ để chứng mình việc thực thi chủ quyền dưới mắt một trọng tài/quan tòa phương Tây. Trên thực tế một số học giả quốc tế cho rằng cả VN và TQ đã không thực thi chủ quyền đầy đủ cho đến đầu thế kỷ 20.

Hai tác giả của bài báo dưới đây (và không chỉ có họ) khẳng định cột mốc để đánh giá việc VN hay TQ có chủ quyền trên HS-TS là năm 1951 khi tại hội  nghị San Francisco Nhật từ bỏ quyền chiếm đóng tất cả các đảo trên Biển Đông. Nếu đây trở thành quan điểm chính thống của tòa thì như nhà văn Phạm Thị Hoài nói tất cả các bản đồ cổ chỉ còn giá trị nghiên cứu. Như vậy nỗ lực của các chuyên gia VN phải là đi thu thập các tài liệu chứng minh chủ quyền từ sau năm 1951 (hoặc cùng lắm từ đầu thế kỷ 20) chứ không phải chỉ nhăm nhăm đi tìm bản đồ, chứng chỉ trong thế kỷ 18-19.

Cuối cùng, VN phải chấp nhận một sự thật là TQ đang chiếm đóng HS và một số đảo ở TS. Việc kiện tụng đòi lại chủ quyền trên 2 quần đảo này sẽ rất khó khăn và lâu dài trong khi TQ đang càng ngày càng có các hoạt động bành trướng (eg. giàn khoan, tàu cá). Bởi vậy VN phải ưu tiên cho một vụ kiện theo UNCLOS để hạn chế các hoạt động bành trướng của TQ trên biển chứ không nên quá tốn thời gian và công sức cho vấn đề chủ quyền HS-TS. Nếu vậy những bằng chứng cho thấy đảo Triton không support được sự sống nên không có EEZ quan trọng hơn nhiều một bản đồ cổ chứng minh hòn đảo đó là của VN.
http://journals.cambridge.org/action/displayAbstract?fromPage=online&aid=9307232&fileId=S0922156514000284

Saturday, August 2, 2014

Mỗi khi nhìn thấy cái tên Ung Văn Khiêm tôi lại nhớ đến bài thơ Bút Tre (theo trí nhớ có thể không chính xác):

Mỗi khi nhìn thấy cái tên Ung Văn Khiêm tôi lại nhớ đến bài thơ Bút Tre (theo trí nhớ có thể không chính xác):

Bộ trưởng nội vụ Ung Văn Khiêm
Ngồi trên xe lửa bật que diêm
Nhìn qua cửa sổ thấy đồi cọ
Đấy là cảnh đẹp của Phú thọ

Vị bộ trưởng danh tiếng vì đã "bật que diêm trên xe lửa" này gần đây được TQ nhắc đến trong bản tuyên bố gửi LHQ về vụ giàn khoàn HD-981. Chí ít cho đến hôm nay ông là quan chức cao cấp nhất của VN đã từng tuyên bố Nam Sa và Tây Sa thuộc về TQ vào năm 1956 khi đang là thứ trưởng BNG. Nhiều người lo ngại công hàm 1958 sẽ gây khó khăn cho VN trong việc khẳng định chủ quyền HS-TS, lời tuyên bố của ông Ung Văn Khiêm - nếu TQ có bằng chứng cụ thể (ghi âm, biên bản) - sẽ có tác hại không kém.

Nếu lời tuyên bố đó có thật, một câu hỏi đặt ra là tại sao ông Ung Văn Khiêm lại nói như vậy? Bỏ qua các conspiracy theory (gián điệp Tàu, cả tin nhờ TQ giữ hộ...) rất có khả năng ở thời điểm 1956 một cán bộ trung-cao cấp (thứ trưởng) chưa học xong trung học như ông Khiêm chẳng biêt Nam Sa, Tây Sa là gì, cứ nghĩ rằng đó là những hòn đảo gần Đài loan đang bị quân Tưởng Giới Thạch chiếm đóng.

Thậm chí cũng có thể ông thứ trưởng Khiêm lúc đó còn chẳng biết Hoàng Sa, Trường Sa là gì nữa. Bạn đã bao giờ đặt câu hỏi ở miền Bắc từ dân thường cho đến các cán bộ trung-cao cấp như ông Khiêm được nghe đến HS-TS từ khi nào chưa? Tôi không biết nhưng đoán rằng chỉ từ sau năm 1975 người miền Bắc (trừ những lãnh đạo cao cấp) mới biết về 2 quần đảo này. [Các bạn ở miền Bắc thử hỏi ông bà, cha chú của các bạn xem các cụ nghe nói về HS-TS từ khi nào].

Lý do là những bộ sách giáo khoa thời đó không nhắc đến HS-TS mà chỉ có Tây Sa - Nam Sa, báo chí và đài phát thanh chắc chắn còn "bảo hoàng" hơn. Tôi không nghi ngờ gì đây là hệ quả của chính sách tuyên truyền, bưng bít thông tin mà ĐCS đã làm (rất giỏi) cho đến tận hôm nay. Từ những vụ tham nhũng trong nước đến Crimea hay HD-981 báo chí chỉ được phép đăng những tin tức gì đã được duyệt, được định hướng. ĐCS luôn luôn cho rằng họ "sáng suốt" biết những thông tin nào nên hay không nên cho dân biết vì lý do "nhạy cảm".

Hậu quả của chính sách này đã và sẽ là những lời nói, hành động "đúng đường lối" hiện tại nhưng về lâu dài vô cùng tai hại cho đất nước của những người tin vào tuyên truyền của ĐCS như ông thứ trưởng "bật que diêm" thủa nào.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ung_V%C4%83n_Khi%C3%AAm

Bitcoin II

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html