Friday, October 31, 2014

Bạn là chủ một nhà hàng đang có dự định mở rộng thêm.

Bạn là chủ một nhà hàng đang có dự định mở rộng thêm. Giả sử nếu đầu tư thêm 5 bàn, mỗi ngày 1 bàn có thêm 10 khách, mỗi khách tiêu trung bình $20. Vậy lợi ích của việc mở rộng nhà hàng (chưa tính chi phí đầu tư):

a/ 5 x 10 x 20 = $1000/ngày
b/ 5 x 10 x 20 - (chi phí thực phẩm nấu cho 50 thực khách) = $1000 - Costs.

Tôi đoán những người làm Báo cáo Đầu tư dự án sân bay Long Thành chọn phương án a.

Một số ý kiến đề xuất cải tạo sân bay Biên Hoà trở thành một sân bay dân dụng thay vì xây Long Thành.

Một số ý kiến đề xuất cải tạo sân bay Biên Hoà trở thành một sân bay dân dụng thay vì xây Long Thành. Tuy nhiên chưa kể vấn đề dioxin và hiệu quả đầu tư, theo Báo cáo Đầu tư của chính phủ, Bộ Quốc Phòng đã trả lời rằng "không thể" cải tạo Biên Hoà thành sân bay dân sự vì lý do an ninh quốc phòng. Như vậy phương án này đã bị Bộ Quốc phòng bác bỏ, tất nhiên BQP không cần giải thích vì đó là bí mật quân sự.

Ngoài ra TSN bị quá tải cũng một phần vì lý do quân sự. Hiện tại các vùng cấm bay (vì lý do quốc phòng) làm TSN chỉ có thể đạt được 29 chuyến bay/giờ (cả cất cánh và hạ cánh) bằng 2 đường băng hiện hữu, tương đương với 140000 chuyến/năm. Trong khi đó số liệu của Báo cáo Đầu tư cho một sân bay có 2 đường băng (cấu hình đóng giống TSN) là 59 chuyến/giờ. Như vậy chỉ cần BQP giải toả bớt các vùng cấm bay gần TSN, công suất cất cánh hạ cánh có thể tăng lên gần gấp đôi mà không cần đầu tư gì thêm.

Nhiều báo trích dẫn EIRR của dự án sân bay Long Thành là 22.1%, nhưng đây là số cũ chưa được cập nhật dựa trên số...

Nhiều báo trích dẫn EIRR của dự án sân bay Long Thành là 22.1%, nhưng đây là số cũ chưa được cập nhật dựa trên số liệu đến năm 2009. Theo báo cáo tiền khả thi nếu sử dụng số liệu cập nhật đến cuối tháng 6/2014 thì EIRR của base case là 29.8%.

Trước năm 75 Long Thành có một căn cứ quân sự rất lớn của Mỹ.

Trước năm 75 Long Thành có một căn cứ quân sự rất lớn của Mỹ. Thời những năm 80/90 đi ngang qua đây tôi vẫn thấy vùng đất trống này rất lớn, dân chỉ sống ven QL51 khu vực ngã ba Vũng Tàu. Vậy tại sao bây giờ xây dựng sân bay lại phải giải phóng mặt bằng và đền bù/di dân. Không lẽ trong 20 năm qua tỉnh Đồng Nai đã cho dân vào sống trong khu quân sự? Hay vị trí sân bay khác với vị trí căn cứ quân sự cũ?

Thursday, October 30, 2014

Tôi đang đọc tờ trình của chính phủ gửi QH về dự án sân bay Long Thành.

Tôi đang đọc tờ trình của chính phủ gửi QH về dự án sân bay Long Thành. Cũng giống như đa số văn bản khác ở VN, mục đầu tiên của tờ trinh này là các cơ sở pháp lý. Sẽ không có gì để nói nếu cơ sở pháp lý là một loạt luật, nghị định, nghị quyết của chính phủ và QH. Tuy nhiên trong danh sách gần 20  văn bản đó có một nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương ĐCS VN.

Như vậy trong hệ thống nhà nước VN, nghị quyết của Đảng cũng được coi là một văn bản pháp lý? Hay tờ trình này nhầm lẫn đưa cái nghị quyết đó vào?

Xác suất sống sót (survival rate) của các quân cờ: tốt trắng d2 có xác suất hi sinh cao nhất trên bàn cờ, ngược lại...

Xác suất sống sót (survival rate) của các quân cờ: tốt trắng d2 có xác suất hi sinh cao nhất trên bàn cờ, ngược lại 2 con tốt cột h có xác suất sống sót cao nhất (không kể tướng). Quân hậu của cả 2 bên hóa ra thường chết sớm hơn xe, mã dễ hi sinh hơn tượng :-)
http://flowingdata.com/2014/10/30/chess-piece-survival-rates

Wednesday, October 29, 2014

Tuesday, October 28, 2014

Một trong những cái thú đọc The Economist là các title chơi chữ rất hay của tạp chí này.

Một trong những cái thú đọc The Economist là các title chơi chữ rất hay của tạp chí này. Ví dụ mấy tuần trước có một bài tựa là "Gross vs Net return" nói về vụ Bill Gross rời khỏi Pimco. Bài dưới đây viết về ETF có tựa là Emerging Trouble in the Future nhại lại ba chữ E, T, F. Nhưng tất nhiên quan trọng nhất vẫn là nội dung bài viết chứ không phải title.

Mấy tuần vừa rồi VN rộ lên tin có vài ETF được thành lập. Tôi không rõ các quĩ đó có cơ cấu thế nào nhưng để là một ETF đúng nghĩa phải có 3 điều kiện sau:

- Exchange traded: phải được niêm yết và mua bán trên thị trường
- Open ended: phải mở cho các nhà đầu tư mới tham gia cũng như cho các nhà đầu tư rút vốn khi cần
- Authorized Participants (AP): là các ngân hàng, broker, quĩ đầu tư lớn sẵn sàng đứng ra làm market maker cho cổ phiếu ETF và underlying assets.

Trên thực tế điều kiện thứ 3 (có AP) quan trọng nhất và là khác biệt chính của ETF với các hình thức exchange traded funds khác. Cũng chính vì nhu cầu phải có (independent) AP nên các ETF gần như bắt buộc phải là index fund, nghĩa là một quĩ đầu tư thụ động theo một index nào đó được biết rộng rãi.

Một hoạt động cực kỳ quan trọng của các AP được bài báo dưới đây mô tả là:

"The AP can also keep the price of the fund in line with its assets through arbitrage. The asset value of the ETF is published on a regular basis during the day; if the price of the ETF is higher than its underlying assets, then the AP (or any big investor) can sell ETF shares and buy the underlying assets. If the price is lower, they can buy ETF shares and sell the assets."

Theo tôi biết VN chưa cho phép short sell, như vậy giới hạn sell của các AP ở VN sẽ là số lượng ETF share/underlying assets mà họ nắm giữ (vì ETF phát hành share mới phải mất vài ngày). Nếu họ bán hết số shares đó họ sẽ không có cách nào arbitrage được nữa vì không được short sell. Như vậy nếu một ETF ở VN không được một số AP lớn đứng đằng sau (nắm giữ một lượng share lớn) thì giá của cổ phiếu ETF có thể sẽ có chênh lệch lớn với giá của underlying assets.

Dù ETF tiềm ẩn một số rủi ro việc xuất hiện một số ETF ở VN là một điều rất nên có. Đó là công cụ giúp các nhà đầu tư nhỏ lẻ giảm bớt rủi ro và đầu tư dài hạn thay vì lướt sóng.
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21627717-regulators-are-worried-trendy-new-product-will-sow-instability-emerging

Bài điểm sách này của David Brown có một ý mà tôi không tán thành:

Bài điểm sách này của David Brown có một ý mà tôi không tán thành:

"Ironically, the Vietnamese have ceased to harp on their own historic claim. They appeal instead to the rules governing the division of seas that are codified in the UN Convention on the Law of the Sea, UNCLOS, which came into force in 1994.  So do the Philippines and the Malaysians."

Như tôi đã có lần viết việc VN từ bỏ những đòi hỏi "tham lam" trái với UNCLOS là một điểm tiến bộ. Nó là một cách hành xử văn minh của một quốc gia đã sẵn sàng hội nhập một cách bình đẳng vào cộng đồng quốc tế. Điều còn thiếu là đưa các vụ tranh chấp với TQ trên BĐ-HS-TS ra tòa quốc tế phân xử thay vì cho tầu cảnh sát biển ra đâm nhau với tàu của họ.

Một điểm khác tôi cũng không đồng ý với nhiều học giả là khả năng WW3 sẽ bắt nguồn từ các tranh chấp trên Biển Đông. Chiến tranh có thể xảy ra nhưng hiện tại TQ gần như không có đồng minh quân sự nào để có thể dẫn đến một cuộc thế chiến. Tôi không tin những nước đang nhận tiền của TQ (Bắc Triều tiên, Cambodia, một số nước châu Phi) sẽ tuyên chiến với VN/Philippines/Nhật bản/Mỹ nếu có chiến sự để giúp TQ. Cả Nga, Iran, Venezuela cũng sẽ đứng ngoài thôi.
http://www.asiasentinel.com/book-review/south-china-sea-struggle-power-asia

Monday, October 27, 2014

Vừa thấy cái tựa bài này tôi đã nghĩ ngay đến nhà báo Hoàng Hải Vân, mở ra đọc quả không sai.

Vừa thấy cái tựa bài này tôi đã nghĩ ngay đến nhà báo Hoàng Hải Vân, mở ra đọc quả không sai. Bác Vân có tư tưởng conservative/libertarian rất mạnh nên luôn chống lại vai trò của government, từ fiat money đến public debt. Dù tôi không hẳn đồng ý với quan điểm conservative của bác Vân, những bài báo như thế này có ích trong hoàn cảnh nợ công đang tăng phi mã ở VN.

Đồ thị bác Hoàng Hải Vân trích dẫn dưới đây có nhiều điểm thú vị về lịch sử nợ công ở Mỹ. Thứ nhất nợ công của nước này tăng cao nhất trong thời gian WWII, tất nhiên vì nhu cầu chi tiêu cho chiến tranh. Phe libertarian đôi khi lập luận rằng chính vì nhà nước có thể vay tiền (và in tiền) nên họ có resource để tham chiến. Do đó nếu tước bỏ quyền này của nhà nước thì chiến tranh sẽ ít xảy ra hơn. Lập luận này khó có thể đúng trong trường hợp WWII, điều gì sẽ xảy ra nếu Mỹ không tham chiến? Quyết định tham chiến của Mỹ có phải vì chính phủ Mỹ có thể vay nợ được?

Điểm thứ hai quan trọng hơn rất nhiều. Sau khi đạt đỉnh cuối WWII, nợ công của Mỹ giảm rất manh trong 3 thập kỷ sau đó bất chấp chiến tranh VN và các chính sách welfare có từ thời FDR. Lý do quan trọng nhất dẫn đến tỷ lệ nợ công giảm là tăng trưởng kinh tế của Mỹ trong giai đoạn đó tăng cao kỷ lục. Chính tăng trưởng kinh tế chứ không phải các biện pháp thắt lưng buộc bụng đã kéo tỷ lệ nợ công xuống. Đây là điểm mà Paul Krugman đã không ít lần chỉ ra.

Thứ ba là giai đoạn tăng nợ công trong thập kỷ 80. Đây là thời của Reagan, một vị tổng thống của đảng Cộng hoà được cho là đã cởi trói thị trường tự do cho nước Mỹ. Rồi đến một giai đoạn ngắn nợ công Mỹ giảm dưới thời Clinton, người bị phe bảo thủ chỉ trích vì các chính sách liberal. Sau Cliton, Bush con cắt giảm thuế theo đúng quan điểm của phe bảo thủ và nợ công tăng trở lại. Các chính sách bailout/stimulus dưới thời Obama tiếp tục đẩy tỷ lệ này lên cao, đã vài lần dẫn đến standoff suýt nữa Mỹ phải default nợ chính phủ. Một điểm chung của các giai đoạn nợ công tăng sau thập kỷ 70 (dưới thời Reagan, Bush con, Obama) là những giai đoạn đó đều có suy thoái kinh tế và khủng hoảng tài chính.

Như vậy bài học rút ra là để không bị nợ công tăng cao cần phải tránh chiến tranh và khủng hoảng/suy thoái kinh tế. Muốn giảm nợ công phải có một nền kinh tế tăng trưởng tốt. Làm thế nào để có tăng trưởng tốt là một vấn đề khác, nhưng đồ thị này đã chứng tỏ đổ lỗi cho các chính sách liberal của phe Dân chủ (vd tăng thuế, tăng welfare) làm nợ công tăng cao không đúng, ít nhất với Mỹ trong hơn nửa thế kỷ qua.

P.S. NPR trước đây có một series về public debt có nói đến cuộc tranh luận giữa Jefferson/Hamilton rất thú vị và cả giai đoạn zero debt của Jackson.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141026/no-cong-trong-vong-xoay-lich-su-ky-1-loi-canh-bao-cua-thomas-jefferson.aspx

Sunday, October 26, 2014

Bài báo dưới đây liên hệ việc phòng chống Ebola với big data, cụ thể là dữ liệu CDR của các hãng điện thoại di động...

Bài báo dưới đây liên hệ việc phòng chống Ebola với big data, cụ thể là dữ liệu CDR của các hãng điện thoại di động ở châu Phi. Về cơ bản nếu các hãng điện thoại ở các nước bị dịch Ebola chấp nhận giao số liệu CDR mà họ thu thập liên tục cho các nhà dịch tễ học (epidemiologist) thì cơ quan y tế có thể dự đoán khá chính xác nguồn và xu hướng lây bệnh dựa vào thông tin dịch chuyển của các sim điện thoại, từ đó đưa ra biện pháp ngăn ngừa hiệu quả.

VN chưa bị Ebola nhưng cơ quan y tế cũng nên nghiên cứu ứng dụng này cho các bệnh dịch khác trong tương lai. Ở đây tôi muốn đề xuất một hướng sử dụng big data/CDR cho một ứng dụng khác rất thiết thực với VN hiện tại. Đó là sử dụng CDR và các mô hình logistic/traffic planning để chống kẹt xe tại các thành phố lớn ở VN, hoặc mở rộng hơn cho vấn đề qui hoạch đô thị.

Cụ thể là số liệu CDR cho phép biết địa điểm (khá chính xác) của một sim điện thoại di động gần như 24/7 (trừ khi điện thoại bị tắt hoặc ngoài vùng phủ sóng). Vì phần lớn dân đô thị có điện thoại di động nên có thể sử dụng số liệu CDR trong quá khứ (historical data) để ước lượng các dòng giao thông trong thành phố vào các giờ cao điểm trong ngày, từ đó có thể lên kế hoạch phân luồng và điều khiển tín hiệu giao thông để giảm thiểu kẹt xe. Thậm chí có thể đưa ra khuyến cáo người dân ở phường X, quận Y muốn đi sang quận Z vào 7AM thứ Hai nên đi theo đường nào. Đây là một bài toán optimization rất điển hình.

Với số liệu CDR theo thời gian thực, các điểm đang hoặc có khả năng sẽ kẹt xe được tính toán và thông báo về cho cơ quan quản lý giao thông để một phần mềm đưa ra các phương án giải quyết ngay tức khắc. Ví dụ gửi tin nhắn cho những xe đang đi về phía nút kẹt xe đó cảnh báo và hướng dẫn lái xe chuyển sang một đường đi khác. Tất nhiên khai thác dữ liệu CDR thời gian thực phức tạp hơn và đòi hỏi phải đầu tư thêm phần cứng, nhưng hiệu quả chống kẹt xe sẽ cao hơn.

Cho dù sử dụng số liệu CDR lịch sử hay thời gian thực, cũng giống như trường hợp chống Ebola ở châu Phi, một khó khăn lớn là phải thuyết phục các công ty điện thoại chia sẻ số liệu. VN có một thuận lợi là các nhà mạng lớn đều là công ty nhà nước nên chính phủ có thể can thiệp để họ cung cấp số liệu. Một phương án khác là một/vài bạn doanh nhân trẻ nào đó mở startup, đến đàm phán với các công ty điện thoại mua lại số liệu của họ rồi bán dịch vụ traffic planning (qua app) cho người dân và doanh nghiệp (vd taxi, bus).
http://www.economist.com/news/leaders/21627623-mobile-phone-records-are-invaluable-tool-combat-ebola-they-should-be-made-available

Friday, October 24, 2014

Có một nhà báo nước ngoài muốn tìm hiểu về thị trường bitcoin VN, bạn nào hiểu biết/làm việc/kinh doanh trong lĩnh...

Có một nhà báo nước ngoài muốn tìm hiểu về thị trường bitcoin VN, bạn nào hiểu biết/làm việc/kinh doanh trong lĩnh vực này và sẵn sàng chia sẻ làm ơn email cho tôi: blog.kinhtetaichinh@gmail.com. Cám ơn.

Wednesday, October 22, 2014

Rất nhiều người nói về "xử lý nợ xấu", từ thủ tướng đến các chuyên gia kinh tế/tài chính đến các...

Rất nhiều người nói về "xử lý nợ xấu", từ thủ tướng đến các chuyên gia kinh tế/tài chính đến các bloggers/facebookers. Nhưng tôi chưa thấy ai đưa ra một định nghĩa thế nào là xử lý nợ xấu, và có lẽ không phải ai cũng hiểu đúng khái niệm này. Tạm thời tôi đưa ra định nghĩa sau, có thể chưa đầy đủ và chính xác, nhưng hi vọng sẽ sẽ giảm bớt nhầm lẫn khi mọi người thảo luận về chủ đề này:

"Xử lý nợ xấu là quá trình đưa một khoản nợ xấu ra khỏi balance sheet của cả con nợ lẫn chủ nợ."

Tôi nhấn mạnh vào "cả con nợ lẫn chủ nợ" vì thấy nhiều chuyên gia nhắc đến "nợ xấu như một cục máu đông trong nền kinh tế" nhưng chỉ nhìn từ khía cạnh chủ nợ (ngân hàng). Thực ra nợ xấu làm nghẽn tín dụng chảy vào nền kinh tế chủ yếu từ phía con nợ vì với họ đó là liability không thể tự rũ bỏ. Bởi vậy xử lý nợ xấu phải ưu tiên nhìn từ góc độ con nợ. Điều đó tương tương với tái cấu trúc lại khoản nợ và/hoặc tái cấu trúc con nợ (doanh nghiệp).

Từ trước tới giờ tôi cứ tưởng hãng sản xuất lốp (vỏ) xe hơi Michelin trùng tên với Michelin star cho các nhà hàng.

Từ trước tới giờ tôi cứ tưởng hãng sản xuất lốp (vỏ) xe hơi Michelin trùng tên với Michelin star cho các nhà hàng. Hóa ra ý tưởng chấm điểm nhà hàng (và khách sạn) được Michelin (lốp xe) đưa ra đầu thế kỷ 20 nhằm khuyến khích các chủ xe (giới thượng lưu thời đó) lái xe đi xa nhiều để lốp xem chóng mòn. Một thế kỷ sau Michelin star đang trở nên nổi tiếng hơn sản phẩm chính của Michelin.
http://www.businessinsider.com.au/history-of-the-michelin-guide-2014-10

Mới đọc tin Yale endowment fund năm vừa rồi tăng hơn 20%, cao nhất trong 8 trường Ivy League.

Mới đọc tin Yale endowment fund năm vừa rồi tăng hơn 20%, cao nhất trong 8 trường Ivy League. Nhưng hóa ra không chỉ năm ngoái mà suốt 20 năm qua Yale có return trung bình 13.9%/năm so với 9.2%/năm của các trường đại học Mỹ.

Bài viết dưới đây cho biết David Swensen, CIO của Yale, có lẽ đã học hỏi nhiều từ kinh nghiệm của Keynes khi nhà kinh tế này quản lý endowment fund cho King's College. Còn với những ai không đủ kiên nhẫn nghiên cứu Keynes có thể bắt chước Yale hay các endowment funds khác, một investment strategy mà tôi đã từng đề cập trên blog. Đây là kết quả đầu tư năm rồi của Ivy League:

Yale University — 20.2% 
Princeton University — 19.6% 
Dartmouth College — 19.2% 
University of Pennsylvania — 17.5% 
Columbia University — 17.5% 
Brown University — 16.1% 
Cornell University — 15.8% 
Harvard University — 15.4% 

Nhưng tất nhiên strategy này chỉ áp dụng được nếu bạn đầu tư ở Mỹ. Hi vọng các trường đại học ở VN sẽ sớm có endowment fund để mọi người bắt chước.
http://www.voxeu.org/article/keynes-asset-management-king-s-college-1921-1946

Tuesday, October 21, 2014

Cựu thủ tướng Úc Gough Whitlam vừa qua đời hôm nay.

Cựu thủ tướng Úc Gough Whitlam vừa qua đời hôm nay. Trong 4 năm cầm quyền (1972-1975) ông đã để lại những di sản vô cùng lớn cho nước Úc:

- Bảo hiểm y tế toàn dân (là điều 40 năm sau Obamacare vẫn chỉ làm được một phần cho nước Mỹ).
- Xóa bỏ học phí đại học cho toàn dân (dù sau này Úc buộc phải đưa học phí trở lại dưới hình thức HECS nhưng giáo dục đại học của Úc đã có một bước đột phá từ thời Whitlam).
- Khôi phục quyền sở hữu đất đai của thổ dân Úc (ở Northern Territory).
- Thiết lập quan hệ ngoại giao với TQ.
- Rút quân khỏi miền Nam VN và thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH. Ngay từ năm 1974 Úc đã xúc tiến cấp học bổng cho cán bộ, giảng viên từ VNDCCH sang học tiếng Anh.

Dù là một thủ tướng mạnh mẽ, ông chấp nhận bị Toàn quyền John Kerr, người mà chính Whitlam đề cử trước đó, cách chức năm 1975 vì đó là quyền hiến định (dù chức vụ này chỉ là hình thức). Người kế nhiệm và là đối thủ chính trị của ông thừa nhận Whitlam là người đã đem egalitarianism vào Úc. Sau hơn 40 năm đất nước này trở thành một trong những nơi đáng sống nhất thế giới, một xã hội liberal capitalist điển hình, nhờ một phần ở tầm nhìn của Gough Whitlam. RIP.
http://www.smh.com.au/federal-politics/political-news/what-did-gough-whitlam-actually-do-rather-a-lot-20141021-11977w.html

Monday, October 20, 2014

Một đổi mới quan trọng trong phòng họp chính của tòa nhà QH mới là không còn khẩu hiệu "Đảng Cộng Sản Việt Nam quang...

Một đổi mới quan trọng trong phòng họp chính của tòa nhà QH mới là không còn khẩu hiệu "Đảng Cộng Sản Việt Nam quang vinh muôn năm" nằm trên cả Quốc huy lẫn Quốc kỳ nữa. Dù chỉ là hình thức nhưng đó là một thay đổi tiến bộ.
http://noichinh.vn/dataimages/201410/original/images674861_toan_canh.jpg

Saturday, October 18, 2014

Không chỉ có 2 bài có tính cột mốc về Biển Đông và quan hệ Việt-Mỹ, số báo Oct 4 của The Economist có một series...

Không chỉ có 2 bài có tính cột mốc về Biển Đông và quan hệ Việt-Mỹ, số báo Oct 4 của The Economist có một series Special Reports rất quan trọng về xu hướng kinh tế thế giới trong vài thập kỷ tới. Những bài này cần thiết cho bất kỳ ai muốn lập chiến lược/kế hoạch dài hạn, cho một quốc gia, một doanh nghiệp, hay ngay cả cho gia đình mình.

Bài báo đầu tiên trong series này (link bên dưới) cho rằng thế giới sắp, hoặc có thể đã bước vào giai đoạn đầu tiên của cuộc cách mạng công nghiệp (industrial revolution) thứ ba. Cuộc cách mạng thứ nhất bắt đầu khi đầu máy hơi nước ra đời cuối thế kỷ 18, cuộc cách mạng thứ hai vào đầu thế kỷ 20 khi điện lực, cơ giới, dây chuyền sản xuất được phát minh. Cuộc cách mạng lần thứ ba này dựa trên công nghệ thông tin và truyền thông (information and communication technology - ICT).

Trước thế kỷ 18, dù nhiều vương triều/đế chế khác nhau hưng thịnh rồi suy tàn, qui luật phát triển chung vẫn là chiếm đoạt tài nguyên. Sau cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, chủ nghĩa tư bản hoang dã ra đời với sự dịch chuyển từ tích tụ tài nguyên sang tích luỹ tư bản. Cuộc cách mạng lần hai đã chuyển hướng phát triển dựa vào tăng productivity thông qua khoa học và công nghệ. Xã hội tư bản hoang dã mà Karl Marx chứng kiến đã dần dần được thay bằng liberal capitalism với phúc lợi nhà nước và gia tăng bình đẳng giữa các tầng lớp, chủng tộc, giới tính, thậm chí cả các khuynh hướng tình dục.

Phong trào cộng sản trong thế kỷ 20 lúc đầu có ảnh hưởng mạnh mẽ cuối cùng cũng không để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển nhân loại. Dù bức tường Berlin đến tận năm 1989 mới sụp đổ và đến nay thế giới vẫn còn vài quốc gia dán nhãn cộng sản, tư tưởng Marx đã mất tính hấp dẫn (intellectual attractiveness) ngay từ giữa thế kỷ 20. Nếu không có vũ lực quân đội và mật vụ, cộng với hệ thống tuyên truyền và bưng bít thông tin, tôi không nghĩ khối XHCN có thể tồn tại lâu như vậy. Nói một cách đơn giản communism không có cửa cạnh tranh sòng phẳng với liberal capitalism sau khi cuộc cách mạng công nghiệp lần hai diễn ra.

Nhưng Francis Fukuyama đã sai lầm khi cho rằng liberal capitalism là điểm cuối cùng của văn minh loài người. Không kể chủ nghĩa khủng bố/dân tộc cực đoan mà cũng sẽ đi vào lịch sử nhân loại như một footnote chứ không để lại dấu ấn, Fukuyama đã không nhìn thấy cuộc cách mạng công nghiệp lần ba và thời đại ICT đang đến gần. ICT không chỉ đem đến iPhone và Facebook, nó có thể thay đổi căn bản nền tảng kinh tế và xã hội loài người. Elon Musk, trả lời phỏng vấn của Walter Isaacson, cho rằng AI và robot sẽ đủ sức xoá sổ loài người trong tương lai như chúng ta hiện đang bấm nút xoá spams. Chưa cần tưởng tượng đến cái bi kịch đó, một điều rõ ràng là ICT (với AI, robot, big data) sẽ đem đến những thay đổi vô cùng lớn lao, không thể kém cạnh so với những thay đổi mà đầu máy hơi nước hay điện khí hoá đã đem lại trong hai cuộc cách mạng công nghiệp trước đây.

Một thực tế là đa số dân chúng vẫn tin vào những lời tiên tri của bà Vanga hay những câu sấm Trạng Trình hơn là dự báo của các chuyên gia, tiến sĩ, chiến lược gia... Bởi vậy trừ khi bạn là Elon Musk hay Jack Ma hay ... Đặng Lê Nguyên Vũ, cách tốt nhất là không dự đoàn gì về thế giới vài chục năm nữa. Đây là cách tiếp cận của loạt Special Reports này. The Economist không đưa ra dự báo cụ thể mà chỉ phân tích một số vấn đề, lĩnh vực mà ICT sẽ có ảnh hưởng sâu đậm. Những topic mà họ đề cập đến là: productivity, labor, education, inequality, housing, cho cả policy makers lẫn những bậc cha mẹ muốn định hướng tương lai cho con cái.

Tôi đã bookmark loạt bài này vào ngày 1/1/2025 trong Google Calendar để đến lúc đó đọc lại xem các phân tích của The Economist đúng sai thế nào (hi vọng đến lúc đó dịch vụ này vẫn còn tồn tại và account của tôi chưa bị hacked). Nhưng từ giờ tới đó chắc chắn tôi sẽ phải cân nhắc những ảnh hưởng của ICT vào các kế hoạch dài hạn trong công việc, gia đình, xã hội. Thay piano lessons bằng programming skills hay watching Frozen bằng playing Minecraft, anyone?
http://www.economist.com/news/special-report/21621156-first-two-industrial-revolutions-inflicted-plenty-pain-ultimately-benefited

Friday, October 17, 2014

Tiếp tục giới thiệu một bài của The Economist số Oct 4.

Tiếp tục giới thiệu một bài của The Economist số Oct 4. Thoạt nhìn bài dưới đây về vụ Mỹ bỏ cấm vận một phần vũ khí sát thương cho VN không có gì mới như GS Trần Hữu Dũng bình luận. Nhưng ngẫm kỹ tôi lại thấy nó có tính chất cột mốc rất quan trọng giống như bài về đường 9 đoạn cũng trong số báo này.

Cách đây 5-7 năm khó có thể tưởng tượng được Mỹ sẽ bỏ cấm vận vũ khí dù một phần cho VN chỉ với điều kiện VN thả 11 nhà bất đồng chính kiến. Thậm chí khả năng bỏ cấm vận hoàn toàn và thiết lập liên minh quân sự ở một mức độ nào đó cũng được phía Mỹ đánh tín hiệu chỉ cần VN có thêm tiến bộ về nhân quyền mà không đòi hỏi gì về thay đổi thể chế. Tất nhiên tình hình thay đổi nhanh như vậy vì ông bạn vàng TQ bỗng trở nên hung hăng, không chỉ làm VN và các nước khác trong khu vực lo ngại mà cả Mỹ và Ấn độ cũng thấy cần phải có biện pháp ngăn chặn trước khi quá muộn. Chẳng dám lạm bàn về quân sự nhưng tôi tin rằng về mặt chiến lược phương án VN trở thành "tiền đồn" chống TQ sẽ là một lựa chọn tốt cho Washington.

Hiển nhiên TQ thừa hiểu rằng tiến hành các hành động bành trướng trên Biển Đông sẽ đẩy VN về phía Mỹ. Bởi vậy không chỉ VN đang phải cố đi dây mà cả TQ cũng phải rất cẩn thận khi đẩy lãnh đạo VN đến sát bờ vực. Nếu quá tay thể chế chính trị của VN có thể sẽ thay đổi nhanh chóng như Ukraine khi bị Nga o ép, nhưng vẫn phải mạnh tay để ép giới lãnh đạo VN nhượng bộ. Sự kiện VN phải cử bộ trưởng quốc phòng sang "làm việc" với TQ ngay sau khi Mỹ bỏ cấm vận vũ khí cho thấy TQ đang chơi ván cờ này khá thành công. Nếu quan hệ Việt-Mỹ tiếp tục ấm lên, sẽ có nhiều thông tin thậm chí khó xử hơn vụ Hồ Tập Chương hay Thành Đô được leak ra trên mạng xã hội.

Sáng thứ Bảy "tán phét" một tí về ván cờ địa chính trị, nhân đang giảng giải cho ông con về cờ tướng. Cu cậu đang rất tò mò khi biết Vietnamese chess có cannons, tanks, elephants, and ... bodyguards nhưng lại không có queen :-)
http://www.economist.com/news/asia/21623779-america-partially-lifts-arms-embargo-against-former-foe-past-prologue

Thursday, October 16, 2014

Số báo The Economist tuần trước (Oct 4) có nhiều bài quan trọng, bài này là một trong số đó.

Số báo The Economist tuần trước (Oct 4) có nhiều bài quan trọng, bài này là một trong số đó. Trong cuộc tranh chấp BĐ-HS-TS với TQ, VN sẽ cần phải viện dẫn bài báo này để phản bác đường 9 đoạn.

Từ trước tới nay TQ chưa bao giờ nói rõ một cách chính thức đường 9 đoạn mà họ vẽ trên bản đồ là gì. Nếu đó là ranh giới biển của territorial water hay thậm chí EEZ thì trái với qui định của UNCLOS. Nhiều học giả assume rằng đường 9 đoạn mô tả chủ quyền các đảo bên trong nó hoặc quyền đánh cá lịch sử (historical right) của TQ. Khi bị vặn về việc đường 9 đoạn không phù hợp với UNCLOS, TQ nói rằng đường này được vẽ từ năm 1947 (thậm chí có thể từ 1936) trước khi UNCLOS ra đời.

Bài báo link bên dưới cho biết trong một cuộc triển lãm bản đồ gần đây tại Đài Bắc, tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu (Ma Ying-jeou) đã chính thức tuyên bố đường 9 đoạn do chính quyền Trung Hoa Dân Quốc vẽ năm 1947 thể hiện chủ quyền các đảo bên trong nó chứ không phải chủ quyền biển (“no other so-called claims to sea regions”). Tất nhiên tuyên bố chủ quyền tất cả các đảo bên trong đường 9 đoạn vẫn sai trái, nhưng đây là một bước ngoặt quan trọng trong các cuộc tranh chấp trên Biển Đông.

Vấn đề là năm 1947 Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa chưa ra đời, do vậy ngay cả nếu quốc gia này ngày nay là đại diện hợp pháp cho các quyền lợi/nghĩa vụ của TQ thì nó phải tôn trọng những gì Trung Hoa Dân Quốc tuyên bố năm 1947. Vì tuyên bố đường 9 đoạn lúc đó chỉ bao hàm chủ quyền đảo bên trong giới hạn đó, không phải chủ quyền biển cũng nhưng bất kỳ historical rights nào như TQ vẫn rêu rao, hiển nhiên chính phủ TQ hiện tại phải chấp nhận điều đó.

Trước khi UNCLOS ra đời thông lệ quốc tế chỉ cho phép các nước có territorial water 3 hải lý tính từ đường cơ sở. Như vậy nếu TQ dựa vào tuyên bố 1947 để khẳng định vị trí giàn khoan HD- 981 nằm trong vùng chủ quyền của mình là hoàn toàn vô lý. TQ buộc phải bác bỏ cả đường 9 đoạn 1947 lẫn UNCLOS mới biện hộ được cho vị trí giàn khoan của mình. Tổng thống Đài Loan Mã Anh Cửu, mặc dù được cho là một người có xu hướng hòa hoãn với TQ, đã có một tuyên bố rất bất lợi cho TQ. Nói theo The Economist là "... a setback for China".
http://www.economist.com/news/asia/21621844-south-china-seas-littoral-states-will-fight-museums-archives-and

Wednesday, October 15, 2014

"Chém gió" tiếp về vụ thời gian taxiing trên sân bay TSN. Theo tôi khoảng thời gian taxiing phụ thuộc vào 3 yếu tố:


"Chém gió" tiếp về vụ thời gian taxiing trên sân bay TSN. Theo tôi khoảng thời gian taxiing phụ thuộc vào 3 yếu tố:

1/ Khoảng cách từ đầu/cuối đường băng đến chỗ đậu máy bay
2/ Mật độ máy bay lên xuống
3/ Efficiency của sân bay (bộ phận điều khiển không lưu và điều khiển cất cánh hạ cánh).

Tạm chưa bàn về mục 2 và 3, có thể so sánh mục 1 của các sân bay dễ dàng bằng Google Map. Khoảng cách từ điểm cuối cùng của đường băng hạ cánh của TSN (điểm 1 trong hình bên dưới) đến nhà ga quốc tế (điểm 2) khoảng từ 3 đến 4km. Cũng dùng Google Map tôi ước lượng khoảng cách này cho một số sân bay lớn trong khu vực và trên thế giới (không hoàn toàn chính xác vì một số sân bay tôi phải đoán điểm cuối của đường băng hạ cánh):

Noi Bai: 1.5-2km
Changi: 0.5-3.5km
KL: 0.5-1km
Suvarnabhumi (Bangkok): 1-1.5km
Hong Kong: 1-4km
Narita (Tokyo): 0.3-4km
Charles de Gaulle: 1.5-3.5km
Heathrow: 0.5-3km
Frankfurt: 0.8-3km
Dulles (DC): 0.9-2km
Logan (Boston): 0.8-1.5km
O'Hare (Chicago): 1.5-3km
JFK (NY): 0.5-3.5km
Los Angeles: 0.5-4km

Như vậy so với các sân bay nói trên TSN có quãng đường taxi cho hạ cánh thuộc loại dài nhất. Điều đáng nói là hầu hết các sân bay khác đều có bãi đậu rất gần với cuối đường băng hạ cánh (chỉ cách từ 0.5 đến 1km), TSN được thiết kế khá dở là điểm 1 và điểm 2 gần như ở hai đầu của sân bay. Nếu vị trí nhà ga được rời tới điểm 3 (sân golf hiện tại) thì khoảng cách này sẽ giảm đi đáng kể. Quả thực nhìn bản đồ này tôi không khỏi tự hỏi tại sao lại xây sân golf ở vị trí đó trong khi TSN bị nhà dân ép từ ba phía còn lại.

Đến đây cần nói rõ một điểm là với thiết kế hiện tại, khoảng các taxiing cất cánh của TSN rất ngắn vì nhà ga rất gần với đầu đường băng cất cánh. Cho nên thời gian taxiing trước khi cất cánh sẽ ngắn hơn nhiều sân bay khác. Tuy nhiên tôi nghĩ khoảng cách này ngắn có khi lại không efficient vì thiếu chỗ đậu tạm cho máy bay chờ ra đường băng. Theo tôi nếu TSN được thiết kế ngược lại, nghĩa là taxiing cất cánh dài còn taxiing hạ cánh ngắn thì hiệu quả sẽ tốt hơn, điều này phù hợp với việc dời nhà ga sang phía sân golf bên trên. Cái này tôi đoán vậy chứ phải để các chuyên gia hàng không phân tích.

Nhưng khi nhìn vào Google map của các sân bay liệt kê bên trên, tôi thấy TSN và Nội Bài (và Charles de Gaulle) có cùng một kiểu thiết kế là nhà ga hành khách nằm ở một bên của 2 đường băng song song với nhau. Trong khi đó hầu hết các sân bay khác đều thiết kế nhà ga nằm giữa hai đường băng. Thiết kế như vậy có vẻ efficient hơn vì cả hai khoảng cách taxi lên xuống đều có thể rút ngắn. Đáng tiếc là người Pháp đã không tính đến điều này khi thiết kế TSN (và Nội Bài?). Nếu xây dựng Long Thành, hi vọng kiểu thiết kế nhà ga ở giữa sẽ được áp dụng.

Tuesday, October 14, 2014

Cách đây chưa lâu Greg Mankiw tỏ ý nghi ngờ một nghiên cứu của IMF (trích dẫn trong bài báo link bên dưới) về...

Cách đây chưa lâu Greg Mankiw tỏ ý nghi ngờ một nghiên cứu của IMF (trích dẫn trong bài báo link bên dưới) về infrastructure spending. Đại khái IMF cho rằng trong một số điều kiện nhất định đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng là "lấy mỡ nó rán nó", nghĩa là chi phí cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng (bằng vay nợ) sẽ được hoàn trả sau vài năm vì lợi ích của nó mang lại. Do vậy tỷ lệ nợ công sẽ giảm nếu tiền chính phủ vay được đầu tư vào cơ sở hạ tầng. Mankiw, không hổ danh là một conservative economist, phản bác rằng trên đời này chẳng bao giờ có "free lunch". 

Theo IMF, trung bình nếu chính phủ đầu tư hạ tầng với chi phí bằng 1% GDP, tác động trong năm đó sẽ là 0.4% nhưng sau 4 năm sẽ là 1.5% GDP. Tỷ lệ nợ công/GDP nhờ đó sẽ giảm 0.9 percentage point trong năm đầu và 4 pp sau đó bốn năm. Mà đấy là tính trung bình, còn nếu chi phí đầu tư hạ tầng hoàn toàn đi vay, nghĩa là không phải cắt giảm chi tiêu ở chỗ khác hay tăng thuế, thì năm đầu sẽ có tác động tới 0.9% và bốn năm sau là 2.9% GDP. Đây rõ ràng là "free lunch" và chắc chắn phe Keynesian sẽ nhảy vào kêu gào phải gia tăng đầu tư hạ tầng hơn nữa.

Quay lại vấn đề xây dựng sân bay Long Thành, bạn sẽ tin IMF hay Greg Mankiw?
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21621801-public-investments-infrastructure-do-most-good-times

Không biết có ai có cảm giác giống tôi không: thời gian máy bay chạy vào/ra đường băng (taxi) ở TSN lâu hơn nhiều...

Không biết có ai có cảm giác giống tôi không: thời gian máy bay chạy vào/ra đường băng (taxi) ở TSN lâu hơn nhiều sân bay quốc tế khác. Cứ mỗi lần về SG máy bay hạ cánh xong phải taxi một đoạn khá dài ngang qua rất nhiều bong ke chứa máy bay quân sự xây dựng từ trước 75. Nếu điều này đúng tôi e tác giả bài báo này nói đúng, TSN chưa khai thác hết tiềm năng và efficiency của sân bay thấp, cần phải cải thiện trước khi lo nó quá tải.

Tuy nhiên vấn đề có nên xây sân bay Long Thành hay không không chỉ vì lý do TSN quá tải. Điều quan trọng là tầm nhìn và qui hoạch phát triển của SG và các vùng phụ cận. Tôi chưa có đủ thông tin để đánh giá nhưng cảm giác là xây dựng Long Thành sẽ có tác động kéo dãn đô thị SG, giảm tải sức ép dân số, giao thông, môi trường cho nội thànhhiện tại. Chắc chắn là một điều tốt.
http://tuoitre.vn/tin/kinh-te/20141015/san-bay-tan-son-nhat-co-qua-tai/658276.html

Greg Mankiw đưa ra đồ thị này về mối quan hệ giữa bất bình đẳng (Gini) và quan điểm giáo dục con cái phải chăm chỉ.

Greg Mankiw đưa ra đồ thị này về mối quan hệ giữa bất bình đẳng (Gini) và quan điểm giáo dục con cái phải chăm chỉ. Chỉ cần nhìn thoáng qua có thể thấy mối quan hệ này khá mạnh.

Dù Mankiw không bình luận gì, nhưng vì ông là một nhà kinh tế có quan điểm conservative, có thể đoán ý ông là bất bình đẳng trong xã hội do có những người "work hard" và những người "lazy". Đây là quan điểm phổ biến của phe Cộng hòa ở Mỹ, người giàu/thu nhập cao "deserved" điều đó vì họ "work hard".

Tuy nhiên khi đọc bài gốc mà Mankiw trích dẫn, các tác giả lại có lập luận hoàn toàn ngược lại. Ở những xã hội có bất bình đẳng cao, con đường duy nhất để thoát nghèo là phải "work hard". Có lẽ điều này cũng đúng ở VN.
http://gregmankiw.blogspot.com.au/2014/10/inequality-and-parenting.html

Khi Ấn độ phóng vệ tinh thăm dò lên sao Hỏa, cả thế giới thán phục vì tổng chi phí chỉ có 74 triệu USD, thậm chí nhỏ...

Khi Ấn độ phóng vệ tinh thăm dò lên sao Hỏa, cả thế giới thán phục vì tổng chi phí chỉ có 74 triệu USD, thậm chí nhỏ hơn cả kinh phí của bộ phim Gravity của Sandra Bullock và tất nhiên rẻ hơn rất nhiều so với các dự án tương tự của Mỹ và châu Âu. Dự án này rẻ đến mức tính theo km, chi phí đưa vệ tinh này bay đến sao Hỏa chỉ là 7 rupee/km, so với giá vé xe lam (auto-rickshaw) ở Delhi là 8 rupee/km.

Dự án phóng Vinasat 2 của VN lên quĩ đạo trái đất có chi phí 260-280 triệu USD (http://vi.wikipedia.org/wiki/Vinasat-2).
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2014/10/india-fact-of-the-day-5.html

Monday, October 13, 2014

Giới kinh tế học Pháp năm nay thắng lớn.

Giới kinh tế học Pháp năm nay thắng lớn. Đầu năm Thomas Piketty nổi lên như một rock star, cuối năm Jean Tirole đoạn Nobel kinh tế. Một điều thú vị là 2 nhà kinh tế này, không kể ở 2 lĩnh vực khác nhau, có cách tiếp cận khoa học cũng rất khác nhau.

Jean Tirole theo truyền thống "toán học hóa" một ngành khoa học xã hội sử dụng công cụ toán (cực khó) để đưa ra những mô hình lý thuyết mới về thị trường có sự tham gia của các doanh nghiệp lớn (có market power). Ngược lại Thomas Piketty sử dụng rất ít toán, hầu như chỉ dùng số liệu lịch sử để xây dựng một lý thuyết về hệ thống kinh tế tư bản. Có thể nói Tirole đi từ bottom-up còn Piketty theo hướng top-down, hay nói theo chuyên môn kinh tế là micro vs macro.

Mặc dù khác nhau rất xa, nghiên cứu của Tirole và Piketty có một điểm chung là chỉ ra lòng tin ngây thơ vào invisible hand của trường phái kinh tế cổ điển không phải lúc nào cũng đúng. Các (đại) công ty có khi đi lệch khỏi nguyên tắc profit maximization vì luôn bị principle-agent problem. Ngay cả khi các công ty hoàn toàn chạy theo lợi nhuận, nếu họ có market power thì can thiệp của nhà nước vẫn cần thiết để đảm bảo nền kinh tế thị trường vận hành tối ưu. Mà can thiệp nhà nước không đơn giản là thiết lập mặt bằng giá dựa trên marginal cost của các công ty như các nhà kinh tế cổ điển đề xuất. Gốc rễ của vấn đề là phải đưa ra một hệ thống incentive và regulation dựa vào đặc thù của từng ngành công nghiệp, thậm chí từng công ty.

Piketty nhìn nhận vấn đề bất bình đẳng trong thu nhập và phân chia của cải trong xã hội cũng dưới góc độ khiếm khuyết của thị trường tự do hoàn toàn. Hệ thống kinh tế tư bản tự thân nó không thể giải quyết được vấn đề bất bình đẳng như một số nhà kinh tế cổ điển tin tưởng (vd Kuznets). Tất nhiên giải pháp mà Piketty đề nghị cũng là can thiệp của nhà nước vào thị trường, thông qua thuế khóa và trợ cấp xã hội.

Nhưng đáng ngại hơn, bài báo của The Economist link bên dưới cho biết vấn đề bất bình đẳng xét trên bình diện toàn cầu đã gia tăng đáng kể trong 2 thế kỷ qua bắt chấp các can thiệp của chính phủ nhiều nước nhằm hạn chế bất bình đẳng trong nội bộ nước mình. Gini coefficient toàn cầu tăng từ 49 năm 1820 lên 66 năm 2000. Nếu nước Anh ở thời điểm cực thịnh chỉ giầu hơn những nước nghèo cùng thời khoảng 5 lần, ngày nay Mỹ giàu hơn 25 lần.

Một điểm rất quan trọng mà bài báo đã chỉ ra (trích dẫn một nghiên cứu của OECD) là từ thập kỷ 1980 nhờ có toàn cầu hóa nên chênh lệch giầu nghèo giữa các quốc gia đã thu hẹp lại nhưng bất bình đẳng trong nội bộ các nước gia tăng. Điều này rất đúng với VN sau khi cải tổ và mở cửa nền kinh tế chênh lệch giàu nghèo trong nước tăng lên nhưng về tổng thể thu nhập đầu người của VN thu hẹp khoảng cách với các nước phát triển.

Như vậy đối với vấn đề bất bình đẳng (thu nhập, tài sản) thị trường tự do không giải quyết được ở tầm mức macro (một quốc gia) nhưng ở tầm mức super-macro (toàn cầu) nó lại có vẻ có tác dụng tốt. Vậy bài học ở đây là VN nên tiếp tục hội nhập với nền kinh tế toàn cầu đồng thời có những chính sách xã hội hiệu quả để giảm bớt chênh lệch giàu nghèo trong nước. Một chính sách rất hiệu quả là đầu tư vào giáo dục, y tế để những người nghèo chí ít có thể tích lũy human capital cho tương lai. Piketty đề xuất xây dựng một hệ thống thuế với thu nhập và tài sản, nhưng có lẽ với VN vấn đề trước mắt là xây dựng một ngành thuế trong sạch, hiệu quả.

Quay lại giải Nobel kinh tế, nhiều người nghĩ Piketty sẽ được giải nhưng tôi cho rằng sẽ khó trừ khi ông có thêm vài công trình đột phá nữa hoặc ủy ban xét giải thay đổi quan điểm. Giả Nobel kinh tế hầu như chỉ trao cho những người làm về lý thuyết, nếu có làm empirical thì cũng phải sử dụng những phương pháp rất đặc biệt có ý nghĩa khai phá.

Bài báo The Economist nhắc đến Angus Maddison với công trình thu thập số liệu kinh tế thế giới đồ sộ của ông. Maddison bỏ cả sự nghiệp và cuộc đời để xây dựng bộ số liệu cực kỳ hữu ích cho giới kinh tế học, nhưng ông không được trao giải Nobel kinh tế vì đó không phải một lý thuyết hay tư tưởng gì mới. Công trình cua Piketty (C21C) cũng tương tự như vậy.

Tôi đã có lần cho rằng những lý thuyết/tư tưởng kinh tế được giải Nobel có thể sai hoặc lỗi thời, nhưng những bộ số liệu mà Maddison hay Piketty dày công thu thập sẽ là tài sản vĩnh viễn của nhân loại.
http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21621908-what-impressive-work-economic-history-tells-you-about-inequality-breaking

Jean Tirole giành Nobel kinh tế năm nay về industrial organization và game theory.

Jean Tirole giành Nobel kinh tế năm nay về industrial organization và game theory. Không phải chuyên ngành của tôi nên không biết gì nhiều, các bạn phóng viên muốn tìm hiểu về các công trình của nhà kinh tế này nên phỏng vấn anh Lê Hồng Nhật (GT) hay anh Vũ Thành Tự Anh (IO).

PS. Tyler Cowen nhận xét là các nhà kinh tế Pháp nhiều người có background toán và engineering. Tôi có một điểm giống Tirole là có bằng engineering trước khi học economics, nhưng tất nhiên không mơ tưởng gì Nobel. VN vài chục năm nữa chắc quota chỉ có "nửa giải Nobel kinh tế" thôi, nhưng có người xí phần rồi.
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2014/10/2014-nobel-laureates-in-economics-are-jean-tirole.html

Sunday, October 12, 2014

Liên quan đến chữ tượng hình của TQ tôi nhớ hồi nhỏ đọc một quyển truyện về toán cho thiếu nhi (dịch từ sách của LX)...

Liên quan đến chữ tượng hình của TQ tôi nhớ hồi nhỏ đọc một quyển truyện về toán cho thiếu nhi (dịch từ sách của LX) có một ý là sở dĩ số La mã không phát triển được vì hệ thống ký hiệu số như vậy không tiện cho việc làm toán. Sau này tôi cũng có thắc mắc tương tự với số viết theo chữ tượng hình của TQ. Ngạc nhiên hơn là TQ có một số thành tựu toán học phát triển trước phương Tây, chỉ bị chựng lại sau này (thế kỷ 14-15).

Hóa ra trước đây người TQ cổ đã phát minh một hệ thống ký hiệu số hoàn toàn khác khi làm toán (chứ không dùng chữ tượng hình như "nhất", "nhị", "tam"...). Hệ thống ký tự này và bẳng tính đi kèm (counting rods) là cơ sở để người TQ phát triển bàn tính gỗ. Bàn tính có thể sử dụng khá hiệu quả cho bốn phép tính số học (+, -, x, :) nên chắc đã giúp TQ phát triển toán và khoa học khá nhanh so với châu Âu thời kỳ đầu. Nhưng cũng chính bàn tính hạn chế các khái niệm abstract hơn như căn, logarithm, số ảo... nên chắc đã làm nền toán học của TQ tụt hậu so với phương Tây.
http://en.wikipedia.org/wiki/Counting_rods

Bài này có nhiều điểm quan trọng, một trong số đó bàn về sự kiện đồng USD lên giá mạnh so với các đồng tiền khác...

Bài này có nhiều điểm quan trọng, một trong số đó bàn về sự kiện đồng USD lên giá mạnh so với các đồng tiền khác trong vài tuần qua. Trong lịch sử có 2 lần đồng USD tăng giá mạnh so với hầu hết các đồng tiền khác, giai đoạn 1979-1985 và 1995-2001. Cả hai lần này những nước đang phát triển có 3 vấn đề sau đều rơi vào khủng hoảng hoặc khó khăn/recession:

1/ Có nợ nước ngoài (public+private) lớn. 
2/ Có current account deficit lớn.
3/ Có nợ công cao.

Trong 2 năm gần đây current account của VN đã cải thiện nhiều nhưng deficit với TQ tăng rất cao, mà tôi đoán XNK với TQ vẫn sử dụng USD là chủ yếu. Số liệu vấn đề 1/ và 3/ của VN không rõ ràng và chính xác nên khó đánh giá. Dù sao nếu tôi là NHNN tôi sẽ tiến hành một đánh giá (bí mật/nội bộ) và đưa ra các biện pháp đối phó như BoE đã làm trước cuộc bỏ phiếu ở Scotland. Có thể tình hình chưa đáng báo động, nhưng cũng không nên chủ quan.
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2014/10/pessimistic-forecast?fsrc=rss

Các biện pháp trừng phạt kinh tế thường không có tác dụng, tuy nhiên có vẻ lần này Nga đang thấm đòn.

Các biện pháp trừng phạt kinh tế thường không có tác dụng, tuy nhiên có vẻ lần này Nga đang thấm đòn. Dẫu sao cũng nên đợi mùa đông tới xem quan hệ Nga-EU có "ấm" lên không.
http://econbrowser.com/archives/2014/10/russia-under-pressure-russia-moves-ruble-band-in-biggest-intervention-since-march

Tháng trước trong khi cả nước Anh và thế giới hồi hộp đợi kết quả cuộc trưng cầu dân ý của Scotland thì ngân hàng...

Tháng trước trong khi cả nước Anh và thế giới hồi hộp đợi kết quả cuộc trưng cầu dân ý của Scotland thì ngân hàng trung ương Anh (BoE) âm thầm chuẩn bị kế hoạch phản ứng nếu phe "Vote Yes" thắng.

Tất nhiên biện pháp quan trọng nhất mà một central bank phải làm là thực hiện tốt vai trò lender of last resort, nghĩa là cam kết cung cấp unlimited liquidity cho những ngân hàng bị rút tiền ồ ạt. Bởi vậy BoE đã bí mật chuẩn bị kế hoạch triển khai một "emergency liquidity operation" ngay khi "Vote Yes" được tuyên bố thắng, có lẽ chủ yếu nhắm vào RBS - ngân hàng lớn nhất Anh và thứ nhì châu Âu. Điều này đã không xảy ra nhưng việc công bố kế hoạch đối phó bí mật đó sẽ giúp mọi người tin tưởng hơn vào năng lực của BoE.
http://www.businessinsider.com.au/the-bank-of-england-just-released-its-emergency-plans-in-case-scotland-had-voted-for-indepedence-2014-10

Tôi đã nghĩ về giả thiết này khá lâu, bây giờ thấy có người có quan điểm tương tự.

Tôi đã nghĩ về giả thiết này khá lâu, bây giờ thấy có người có quan điểm tương tự. Chữ tượng hình của TQ là một tác nhân quan trọng gắn kết dân tộc này trong mấy nghìn năm lịch sử. Dù ngôn ngữ địa phương có khá nhau đến đâu người TQ vẫn có thể giao tiếp thông qua written language. Điều này rất quan trọng cho việc truyền bá, lưu giữ, phát triển tư tưởng, văn hóa, khoa học qua không gian và thời gian. Nó cũng giúp cho hệ thống cai trị/hành chính hoạt động hiệu quả và đồng nhất.

Tiếng Latin có vai trò tương tự ở châu Âu, nhưng nó vừa là written vừa là spoken language nên học thêm ngôn ngữ này khó hơn. Ngoài ra ngoại trừ hệ thống nhà thờ Công giáo, tiếng Latin không được các triều đại/chính quyền ở châu Âu sử dụng một cách chính thức mà chỉ là common language trong khoa học và nghệ thuật (vì liên quan nhiều đến nhà thờ?).

Với VN, việc chuyển sang sử dụng bảng chữ cái Latin cho written language là một cột mốc rất quan trọng trong lịch sử "thoát Trung" của mình. Về tổng thể tôi nghĩ đa số mọi người sẽ đồng ý cú thoát Trung đó, dưới sự giúp đỡ và áp lực của phương Tây, đem lại nhiều lợi ích cho dân tộc.
http://www.quora.com/Why-did-China-survive-for-over-2000-years-while-the-Roman-empire-did-not

Có thể bạn cũng chưa biết giống tôi.

Có thể bạn cũng chưa biết giống tôi. Năm 1949 Costa Rica đã giải tán quân đội quốc gia, trở thành nước đầu tiên không có quân đội (military) mà chỉ có lực lượng an ninh/cảnh sát bảo vệ trật tự trị an. Điều này được ghi vào hiến pháp của Costa Rica.

Theo Wikipedia có 21 quốc gia như vậy, không hoặc chỉ có một lực lượng quân đội rất nhỏ. Phần lớn các quốc gia này có hiệp ước bảo vệ với một quốc gia khác lớn hơn, vd Monaco với Pháp, Iceland với Mỹ, Nauru với Úc..., hoặc tuyên bố trung lập như Costa Rica hay Vatican.
http://en.wikipedia.org/wiki/Military_of_Costa_Rica

Thursday, October 9, 2014

Bài này dành cho những ai đang/sắp có con nhỏ. Trong số 10 recommendation dưới đây tôi thích nhất mục số 9 :-)

Bài này dành cho những ai đang/sắp có con nhỏ. Trong số 10 recommendation dưới đây tôi thích nhất mục số 9 :-)

1. Let Your Children Taste Things
2. Don’t Be A Bottle Boiler
3. Avoid Antibacterial Soaps
4. Avoid Antibiotics
5. Visit Farms and Have Pets
6. Increase Time With Other Kids 
7. Eat a Variety of Cultured Foods
8. Play Outside 
9. Don’t Bathe/Shower Every Day
10. Don’t Do Excessive Laundry Loads
http://www.artofmanliness.com/2014/10/07/dont-be-a-stick-in-the-mud-why-you-should-let-your-kids-get-dirty

Trong Diễn đàn kinh tế của QH vừa rồi một số chuyên gia tranh luận về việc liệu kinh tế VN đã qua đáy chưa.

Trong Diễn đàn kinh tế của QH vừa rồi một số chuyên gia tranh luận về việc liệu kinh tế VN đã qua đáy chưa. Theo đồ thị dưới đây của Fidelity, các dấu hiệu hiện tại cho thấy kinh tế VN đang ở cuối giai đoạn Recession hoặc có thể chớm vào giai đoạn Early:

- Activity đang phục hồi
- Credit tăng rất chậm nhưng đã tốt hơn năm 2013
- Profit vẫn đang tiếp tục giảm
- Policies vẫn đang tiếp tục easing
- Inventory đang giảm, sell thấp
http://www.ritholtz.com/blog/2014/10/business-cycle-chart

Wednesday, October 8, 2014

Hong Kong, dù đang bị siết dần, vẫn là một thể chế dân chủ với tự do thông tin và báo chí.

Hong Kong, dù đang bị siết dần, vẫn là một thể chế dân chủ với tự do thông tin và báo chí. Bởi vậy dù phong trào phản kháng diễn ra rất mạnh làm Bắc Kinh lo sợ, họ không dám làm tiếp một vụ Thiên An Môn ... thứ ba.

Vụ thứ hai đã bị chính quyền TQ che đậy hoàn toàn khỏi công luận quốc tế.
http://www.businessinsider.com.au/chinas-other-major-protests-2014-10

Đọc tin này thấy ngậm ngùi quá.

Đọc tin này thấy ngậm ngùi quá. Anh Bắc đã 40 tuổi mà chỉ là thượng úy, chế độ chắc cũng chẳng có gì nhiều nên gia đình khó khăn như vậy. Đáng ra tất cả những người lính trên các nhà giàn DK phải được đãi ngộ rất cao. Vị trí đóng chốt của họ cực kỳ nguy hiểm vì TQ chỉ cần bắn vài quả tên lửa là họ hi sinh, không kháng cự được mà cũng chẳng thoát thân được.

RIP anh Dương Văn Bắc, một người chiến sĩ đúng nghĩa.
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20141008/mot-chien-si-hy-sinh-tai-nha-gian-dk1.aspx

Friday, October 3, 2014

Đánh giá và phân loại đại học là một việc đáng hoan nghênh, với điều kiện nó được làm nghiêm túc và công bằng.

Đánh giá và phân loại đại học là một việc đáng hoan nghênh, với điều kiện nó được làm nghiêm túc và công bằng. Tuy nhiên chia thành 5 nhóm như dự thảo này đề xuất theo tôi không cần thiết. Có lẽ chỉ cần chia thành accredited và non-accredited. Còn trường nào tốt hơn hay có ranking cao hơn thì để các tổ chức độc lập tự đánh giá theo tiêu chí của họ.

Đưa ra tiêu chuẩn chi tiết thế nào là đại học nghiên cứu, đại học ứng dụng, đại học thưc hành cũng không cần thiết. Việc định hình mình trong nhóm nào hoặc tập trung vào phân khúc thị trường nào cứ để cho các đại học tự quyết. Một trường có thể vừa là đại học nghiên cứu vừa là đại học ứng dụng, không việc gì phải tách biệt. Harvard là Harvard, Bách Khoa là Bách Khoa, không việc gì phải gắn thêm cái mác "nghiên cứu" hay "ứng dụng".
http://dantri.com.vn/su-kien/dai-hoc-viet-nam-se-duoc-phan-thanh-5-hang-950996.htm

Thursday, October 2, 2014

Về cơ bản tôi ủng hộ việc tăng học phí đại học, nhưng điều đó phải nằm trong một tổng thể cải cách và với điều kiện...

Về cơ bản tôi ủng hộ việc tăng học phí đại học, nhưng điều đó phải nằm trong một tổng thể cải cách và với điều kiện nó không phải là giải pháp để nhà nước phủi tay không tài trợ cho giáo dục đại học nữa. Nhưng bài này tôi thấy có hai điểm không hợp lý. 

Thứ nhất việc tăng học phí phải thông báo công khai trước kỳ thi tuyển sinh để thí sinh biết họ sẽ phải đóng học phí cao hơn nếu trúng tuyển vào 4 trường đại học đó. Sau khi đã tuyển sinh xong đùng một cái 4 trường tuyên bố từ học kỳ 2 năm học này sinh viên mới sẽ phải đóng học phí cao hơn 50% sẽ gây khó khăn cho nhiều sinh viên nghèo. Nếu họ biết trước học phí sẽ tăng cao như vậy có thể họ đã thi vào trường khác. Nên tạm hoãn việc tăng học phí cho đến niên khoá 2015-2016.

Thứ hai tôi ủng hộ việc học phí các ngành có thể khác nhau dù trong cùng một trường. Nhưng nên tính toán dựa vào demand của sinh viên, ngành nào đông sinh viên xin học thì có thể nâng học phí để giảm bớt demand. Giảm học phí cho những ngành mà "xã hội cần" là một khái niệm chủ quan, nhất là nếu ngành đó ít sinh viên theo học. Lấy gì đảm bảo ngành "kinh tế chính trị" cần thiết cho xã hội? 
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140930/hoc-phi-dai-hoc-tang-vot.aspx

Vừa nhớ đến luận văn thì đọc tin Ronald McKinnon qua đời.

Vừa nhớ đến luận văn thì đọc tin Ronald McKinnon qua đời. Ông là một trong ba trụ cột của lý thuyết Optimum Currency Area mà tôi sử dụng trong luận án. RIP.

PS. McKinnon là giáo sư hướng dẫn luận án của anh Lê Hồng Nhật, bạn nào ở trường ĐH Kinh tế - Luật TPHCM nhắn giùm cho anh Nhật.
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2014/10/ronald-mckinnon-1935-2014?fsrc=rss

Đây là hệ quả của việc khăng khăng giữ tỷ giá USDVND ổn định.

Đây là hệ quả của việc khăng khăng giữ tỷ giá USDVND ổn định. Nếu NHNN vẫn cứ kiên quyết giữ mức phá giá VND tối đa 1.43% thì chỉ mấy tháng qua các đồng tiền lớn như Euro hay Yen đã mất giá hơn 7% so với VND rồi, phá giá như vậy bõ bèn gì.

PS. Luận văn của tôi về chính sách tỷ giá kết luận rằng chính sách tỷ giá tối ưu nhất cho VN (theo một số tiêu chí) là basket peg chứ không phải fixed vào đồng USD hay fully flexible. Mà đó là gần 10 năm trước, bây giờ nền kinh tế VN đã mở hơn rất nhiều (M+X/GDP cao hơn nhiều) nên biến động của tỷ giá vào macro sẽ mạnh hơn nhiều.
http://www.thesaigontimes.vn/120730/Tien-dong-len-gia.html

PMI tháng 9 của VN tăng lên 51.7, cả New Orders lẫn New Export Orders đều tăng mạnh trong khi Input Prices hầu như...

PMI tháng 9 của VN tăng lên 51.7, cả New Orders lẫn New Export Orders đều tăng mạnh trong khi Input Prices hầu như không tăng. Các chỉ số rất tốt đến mức HSBC phải thốt lên "Too good to be true? Lower inflation, higher growth".

Nhận xét cá nhân tôi là HSBC/Markit làm seasonal adjustment cho chuỗi PMI chưa tốt, mấy năm nay PMI thường tốt lên từ khoảng tháng 8-9 hàng năm. Nhưng dù sao vẫn hi vọng kinh tế VN sẽ khởi sắc hơn trong Q4.

Wednesday, October 1, 2014

Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn hỏi:

Phó chủ tịch Quốc hội Huỳnh Ngọc Sơn hỏi:

“Tôi cứ tự hỏi mình tại sao mấy nước xung quanh ta như Trung Quốc, Lào, Campuchia không biết họ có tái cấu trúc nền kinh tế của họ hay không mà kinh tế họ phát triển tốt, tăng trưởng cao, lạm phát thấp. Các đồng chí giải thích giùm tôi được không? Chắc là họ cũng khó khăn như ta, cũng bị tác động bởi khủng hoảng tài chính thế giới, cũng có những vấn đề nội tại”

Dù không phải là "đồng chí" của ông Sơn tôi xin mạn phép trả lời:

Một lý do quan trọng là QH những nước đó không đặt ra những câu hỏi "lẩm cẩm" kiểu như "Có nên huy động dân góp tiền, góp vàng để xử lý nợ xấu hay không?"
http://m.tuoitre.vn/tin-tuc/Chinh-tri-Xa-hoi/1059685645,Dan-gop-tien-de-xu-ly-no-xau.ttm

Vụ này có vẻ ĐHKT TPHCM marketing sách cho Cengage Learning.

Vụ này có vẻ ĐHKT TPHCM marketing sách cho Cengage Learning. Đành rằng việc dịch và sử dụng giáo trình của Mankiw là một điều tốt, nhưng cũng nên nói rõ lợi nhuận của việc bán sách này sẽ chảy vào túi của Cengage Learning (và Fahasa). Công ty này đáng ra phải trả công cho ĐHKT TPHCM đã dịch sách và nhất là sử dụng nó làm giáo trình giảng dạy.

Ở đây các nhà xuất bản phải chào mời và dụ dỗ (gần như mua chuộc) giảng viên đại học sử dụng sách giáo khoa của họ, tương tự nhu các hãng dược mua chuộc bác sĩ kê đơn thuốc do mình sản xuất. Có điều giảng viên đại học ở đây được quyền chọn giáo trình, trường và khoa không thể áp đặt phải sử dụng sách này hay sách khác. Nếu tất cả giảng viên ĐHKT TPHCM đồng loạt sử dụng bộ sách của Mankiw, Cengage Leanring chắc sẽ kiếm được một khoản lợi nhuận kha khá từ VN.
http://www.thesaigontimes.vn/120779/DH-Kinh-te-TPHCM-nhap-sach-cua-DH-Harvard-lam-giao-trinh.html

Bitcoin II

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html