Trong phán quyết về jurisdiction vụ kiện Philippines vs China có hẳn một section về VN (oai chưa :-) ). Nội dung chính của section này là giải thích tại sao sự vắng mặt của VN, một bên thứ ba liên quan, không làm ảnh hưởng đến tính hợp pháp của vụ xử. Nhưng với một người Việt như tôi và các bạn nội dung quan trọng nhất của section này là quan điểm chính thức của VN đã gửi cho toà. Có 3 nội dung chính:
- VN thừa nhận jurisdiction của toà và yêu cầu được làm quan sát viên.
- VN phản đối đường 9 đoạn và ủng hộ việc giải quyết tranh chấp trong khuôn khổ UNCLOS.
- VN bảo lưu quyền "intervention by a third party", nghĩa là VN có thể sẽ xin tham gia phiên toà như một bên có tranh chấp.
Liên quan đến điểm thứ ba Philippines đã tuyên bố sẽ uỷ thác cho toà quyền phán xét liệu VN có được tham gia hay không, TQ tất nhiên phản đối (không chính thức). Toà đã gửi thông báo cho VN rằng khi nào VN nộp application xin intervention thì toà sẽ xem xét. Ở thời điểm 29/10/2015 VN chưa nộp application. Để xem động thái của VN thế nào sau chuyến thăm sắp tới của chủ tịch Tập.
PS. Hiện tại đại diện của VN tại phiên toà gồm:
- Mr. Trịnh Đức Hải, Uỷ ban Biên giới
- Đại sứ Nguyễn Duy Chiến
- Mr. Nguyễn Đăng Thắng, Uỷ ban Biên giới
- LS Thomas Grant (không rõ công ty luật nào)
Ngoài VN, Indonesia, Thailand, Malaysia, Japan cũng có đại diện nhưng không nước nào thuê luật sư như VN.
Friday, October 30, 2015
Nhiều người cho rằng phán quyết về jurisdiction của PCA trong vụ Philippines vs China ngày 29/10/2015 là một thắng...
Nhiều người cho rằng phán quyết về jurisdiction của PCA trong vụ Philippines vs China ngày 29/10/2015 là một thắng lợi cho nguyên đơn. Mặc dù đây chưa phải phán quyết cuối cùng mà mới chỉ là "vòng gửi xe" nhưng đọc những lập luận của các thẩm phán/trọng tài trong phiên toà cho thấy không chỉ Philippines thắng mà VN và những quốc gia liên quan (kể cả Mỹ, Úc...) cũng có lợi.
Điểm đầu tiên là toà xác định việc Philippines kiện TQ là hoàn toàn hợp pháp theo qui định của UNCLOS, DOC 2002 không gây ra cản trở về mặt pháp lý với vụ kiện này. Điều này trái ngược với một luận điểm mà TQ vẫn rất to mồm lâu nay là Philippines (và VN) không tuân thủ theo DOC, đi kiện tụng làm phức tạp thêm tình hình. Điểm C Điều 413 nói thẳng việc Philippines khởi kiện không phải là một hành động "abuse" như TQ rêu rao. Việc TQ đã opt-out theo qui định của UNCLOS cũng không hề hấn gì, họ không thể lẩn tránh các vấn đề được xem xét trong phiên toà này (cả 15 submission chứ không phải chỉ 7 cái đã được "duyệt").
Điểm thứ hai cũng rất quan trọng là toà xác định rằng việc TQ tẩy chay không tham dự phiên toà không ảnh hưởng gì đến giá trị pháp lý của phiên toà. Mặc dù văn bản chỉ dừng ở jurisdiction nhưng có thể hiểu các phán quyết (rulling) sau này dù có mặt TQ hay không vẫn sẽ có giá trị pháp lý. Tất nhiên TQ sẽ bác bỏ và không tuân thủ phán quyết của PCA nhưng điều này sẽ gây tiếng xấu cho họ và TQ sẽ không thể mở mồm kêu gọi các bên tuân thủ luật pháp quốc tế được nữa. Dư luận quốc tế, kể cả giới học giả, chắc chắn sẽ quay sang ủng hộ các đối thủ của TQ. Chính nghĩa thuộc về ai lúc đấy đã rõ.
Trong 7 submission đã được PCA xác định jurisdiction, 4 submission liên quan đến việc xác định/phân loại các cấu trúc địa lý trên biển: island vs rock vs low-tide-elevation theo UNCLOS. Nếu là đảo (island) thì sẽ có territorial water 12 hải lý và EEZ, nếu là rock thì chỉ có territorial water, LTE không được cả EEZ lẫn territorial water mà chỉ có 500m safety zone. Nếu PCA phán quyết Subi và Mischief chỉ là LTE thì việc TQ to mồm phản đối Mỹ cho tàu Lassen đi tuần trong phạm vi 12 hải lý là hoàn toàn sai trái. Ngay cả nếu đó là rock thì TQ phải chứng minh tàu Lassen không thực hiện "innocent passage", điều mà TQ đã không hề đề cập đến.
Nhưng quan trọng hơn nếu Subi, Mischief là LTE thì Philippines có thể kiện tiếp việc TQ xây dựng trái phép trên các LTE đó vì chúng nằm trong EEZ của Philippines. Tất nhiên jurisdiction của vấn đề này phức tạp hơn nên Philippines đã không đưa vào phiên toà này, nhưng khi PCA đã ra phán quyết thì các lập luận của Philippines sẽ có cơ sở hơn. Ngay cả nếu không kiện tiếp Philippines (và các nước khác như Mỹ, Úc) có cơ sở pháp lý để điều tàu không chỉ vào phạm vi 12 hải lý mà có thể áp sát đến 500m các đảo nhân tạo của TQ.
Thực ra một số đảo lớn của VN như Trường Sa Lớn có thể được công nhận là island (nghĩa là có EEZ) nhưng VN đã từ bỏ đòi hỏi này khi nộp bản đồ EEZ và thềm lục địa cho UN năm 2009 cùng với Malaysia. Đây là một quyết định tiến bộ và rất đáng hoan nghênh vì giúp giảm bớt áp lực tranh chấp trên khu vực TS. Một số học giả quốc tế (bênh TQ) vẫn viện dẫn bản đồ "bụng bầu" trước đây của VN làm bằng chứng VN cũng tham lam không kém TQ, bằng chứng đó bây giờ không còn giá trị. Nhưng ở HS tiền lệ vụ kiện này của Philippines sẽ rất có giá trị nếu VN khởi kiện hoặc yêu cầu ITLOS cho advisory opinions về giá trị của đảo Tri Tôn vì điều này liên quan đến vụ giàn khoan HD-981 năm ngoái (xem thêm bài này: http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html).
Một vấn đề nữa cũng liên quan đến VN là quyền đánh cá lịch sử của Philippines ở các vùng đảo đang tranh chấp (Scarborough Shoal) trong submission 10. Cũng giống như ở HS, tầu cảnh sát biển TQ ngăn cản/bắt bớ tàu cá của Philippines vì cho rằng tàu cá Philippines vi phạm chủ quyền của TQ. Dù TQ không nói rõ vi phạm trong territorial water hay EEZ nhưng Philippines viện dẫn UNCLOS cho rằng một khi ngư dân của họ đã từng đánh bắt ở khu vực này từ xưa thì bất kể Scarborough Shoal thuộc về ai và nó có EEZ hay không thì TQ vẫn không có quyền đuổi tàu cá của Philippines. Đây là điểm VN hoàn toàn có thể kiện được về việc TQ bắt và đâm vào tàu cá VN ở khu vực HS mà không liên quan gì đến tranh chấp chủ quyền. Vấn đề là VN có dám kiện hay không.
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html
Điểm đầu tiên là toà xác định việc Philippines kiện TQ là hoàn toàn hợp pháp theo qui định của UNCLOS, DOC 2002 không gây ra cản trở về mặt pháp lý với vụ kiện này. Điều này trái ngược với một luận điểm mà TQ vẫn rất to mồm lâu nay là Philippines (và VN) không tuân thủ theo DOC, đi kiện tụng làm phức tạp thêm tình hình. Điểm C Điều 413 nói thẳng việc Philippines khởi kiện không phải là một hành động "abuse" như TQ rêu rao. Việc TQ đã opt-out theo qui định của UNCLOS cũng không hề hấn gì, họ không thể lẩn tránh các vấn đề được xem xét trong phiên toà này (cả 15 submission chứ không phải chỉ 7 cái đã được "duyệt").
Điểm thứ hai cũng rất quan trọng là toà xác định rằng việc TQ tẩy chay không tham dự phiên toà không ảnh hưởng gì đến giá trị pháp lý của phiên toà. Mặc dù văn bản chỉ dừng ở jurisdiction nhưng có thể hiểu các phán quyết (rulling) sau này dù có mặt TQ hay không vẫn sẽ có giá trị pháp lý. Tất nhiên TQ sẽ bác bỏ và không tuân thủ phán quyết của PCA nhưng điều này sẽ gây tiếng xấu cho họ và TQ sẽ không thể mở mồm kêu gọi các bên tuân thủ luật pháp quốc tế được nữa. Dư luận quốc tế, kể cả giới học giả, chắc chắn sẽ quay sang ủng hộ các đối thủ của TQ. Chính nghĩa thuộc về ai lúc đấy đã rõ.
Trong 7 submission đã được PCA xác định jurisdiction, 4 submission liên quan đến việc xác định/phân loại các cấu trúc địa lý trên biển: island vs rock vs low-tide-elevation theo UNCLOS. Nếu là đảo (island) thì sẽ có territorial water 12 hải lý và EEZ, nếu là rock thì chỉ có territorial water, LTE không được cả EEZ lẫn territorial water mà chỉ có 500m safety zone. Nếu PCA phán quyết Subi và Mischief chỉ là LTE thì việc TQ to mồm phản đối Mỹ cho tàu Lassen đi tuần trong phạm vi 12 hải lý là hoàn toàn sai trái. Ngay cả nếu đó là rock thì TQ phải chứng minh tàu Lassen không thực hiện "innocent passage", điều mà TQ đã không hề đề cập đến.
Nhưng quan trọng hơn nếu Subi, Mischief là LTE thì Philippines có thể kiện tiếp việc TQ xây dựng trái phép trên các LTE đó vì chúng nằm trong EEZ của Philippines. Tất nhiên jurisdiction của vấn đề này phức tạp hơn nên Philippines đã không đưa vào phiên toà này, nhưng khi PCA đã ra phán quyết thì các lập luận của Philippines sẽ có cơ sở hơn. Ngay cả nếu không kiện tiếp Philippines (và các nước khác như Mỹ, Úc) có cơ sở pháp lý để điều tàu không chỉ vào phạm vi 12 hải lý mà có thể áp sát đến 500m các đảo nhân tạo của TQ.
Thực ra một số đảo lớn của VN như Trường Sa Lớn có thể được công nhận là island (nghĩa là có EEZ) nhưng VN đã từ bỏ đòi hỏi này khi nộp bản đồ EEZ và thềm lục địa cho UN năm 2009 cùng với Malaysia. Đây là một quyết định tiến bộ và rất đáng hoan nghênh vì giúp giảm bớt áp lực tranh chấp trên khu vực TS. Một số học giả quốc tế (bênh TQ) vẫn viện dẫn bản đồ "bụng bầu" trước đây của VN làm bằng chứng VN cũng tham lam không kém TQ, bằng chứng đó bây giờ không còn giá trị. Nhưng ở HS tiền lệ vụ kiện này của Philippines sẽ rất có giá trị nếu VN khởi kiện hoặc yêu cầu ITLOS cho advisory opinions về giá trị của đảo Tri Tôn vì điều này liên quan đến vụ giàn khoan HD-981 năm ngoái (xem thêm bài này: http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html).
Một vấn đề nữa cũng liên quan đến VN là quyền đánh cá lịch sử của Philippines ở các vùng đảo đang tranh chấp (Scarborough Shoal) trong submission 10. Cũng giống như ở HS, tầu cảnh sát biển TQ ngăn cản/bắt bớ tàu cá của Philippines vì cho rằng tàu cá Philippines vi phạm chủ quyền của TQ. Dù TQ không nói rõ vi phạm trong territorial water hay EEZ nhưng Philippines viện dẫn UNCLOS cho rằng một khi ngư dân của họ đã từng đánh bắt ở khu vực này từ xưa thì bất kể Scarborough Shoal thuộc về ai và nó có EEZ hay không thì TQ vẫn không có quyền đuổi tàu cá của Philippines. Đây là điểm VN hoàn toàn có thể kiện được về việc TQ bắt và đâm vào tàu cá VN ở khu vực HS mà không liên quan gì đến tranh chấp chủ quyền. Vấn đề là VN có dám kiện hay không.
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html
Tôi đã đọc lướt qua 150 trang quyết định về jurisdiction của toà trọng tài PCA trong vụ Philippines vs China, sẽ...
Tôi đã đọc lướt qua 150 trang quyết định về jurisdiction của toà trọng tài PCA trong vụ Philippines vs China, sẽ phải đọc kỹ hơn nhưng trước hết tôi xin tóm tắt lại các phán quyết của PCA ngày 29/10/2015:
- Điểm A, B, C, D Điều 413: Vụ kiện này hoàn toàn hợp pháp theo qui định của UNCLOS mà TQ là một signatory. Việc TQ và các bên thứ ba liên quan (như VN) không tham dự phiên toà không ảnh hưởng đến tính hợp pháp của phiên toà.
- Điểm E: DOC 2002 ký giữa TQ và các nước ASEAN cũng như một số hiệp ước quốc tế khác không phải là rào cản pháp lý đối với phiên toà này. Điểm F cho rằng Philippines đã tìm cách đàm phán với TQ nhưng vụ việc chưa được giải quyết nên đó là tiền đề của phiên toà này.
- Điểm G: Các submission: 3, 4, 6, 7, 10, 11, 13 thuộc thẩm quyền (jurisdiction) phán xử của toà hiện tại. Cụ thể:
+ Sub 3: Scarborough Shoal là "island" hay chỉ là "rock", nếu chỉ là rock thì sẽ không có EEZ mà chỉ có territorial water 12 hải lý.
+ Sub 4: Mischief Reef, Second Thomas Shoal, and Subi Reef chỉ là "low-tide-elevation", nghĩa là không có cả EEZ lẫn territorial water.
+ Sub 6: tương tự như Sub 4 cho Gaven Reef and McKennan Reef (including Hughes Reef).
+ Sub 7: tương tự như Sub 3 cho Johnson Reef, Cuarteron Reef, and Fiery Cross Reef.
+ Sub 10: Philippines khiếu nại TQ về việc ngăn cản "traditional fishing right" của ngư dân Philippines trong khu vực 12 hải lý của Scarborough Shoal.
+ Sub 11: Philippines khiếu nại các hoạt động của TQ có tính chất phá hoại môi trường ở khu vực quanh Scarborough Shoal and Second Thomas Shoal.
+ Sub 13: Philippines khiếu nại các hoạt động tuần tra của TQ quanh khu vực Scarborough Shoal. Phán quyết của PCA nhấn mạnh vào "innocent passage" theo qui định của UNCLOS như là tiền đề của việc họ có jurisdiction. Đây thực sự là cái tát vào mặt bộ Ngoại giao TQ khi mới tuyên bố việc tàu Lassen của Mỹ đi ngang qua Subi và Mischief là hành động "illegal".
- Điểm H: các submission 1, 2, 5, 8, 9, 12, 14 chưa xác định được jurisdiction và PCA sẽ phán quyết về vấn đề này trong merit phase.
+ Sub 1 & 2: yêu cầu PCA làm rõ chủ quyền về tài nguyên trên toàn bộ Biển Đông và vai trò của UNCLOS trong việc xác định vấn đề này. Đây thực chất là yêu cầu PCA phán quyết về hiệu lực của đường 9 đoạn của TQ.
+ Sub 5: yêu cầu PCA làm rõ chủ quyền về tài nguyên trong vùng biển quanh Mischief Reef and Second Thomas Shoal.
+ Sub 8: Philippines khiếu nại việc TQ cản trở các hoạt động tham dò dầu khi và đánh cá trong EEZ của mình.
+ Sub 9: Philippines khiếu nại các hoạt động đánh cá của TQ trong EEZ của mình.
+ Sub 12: Philippines khiếu nại các hoạt động của TQ quanh khu vực Mischief Reef có thể ảnh hưởng đến môi trường.
+ Sub 14: Philippines khiếu nại các hoạt động của TQ quanh khu vực Second Thomas Shoal nơi quân đội Philippines đang chiếm đóng.
http://opiniojuris.org/wp-content/uploads/PH-CN-20151029-Award-on-Jurisdiction-and-Admissibility.pdf
http://opiniojuris.org/wp-content/uploads/PH-CN-20151029-Award-on-Jurisdiction-and-Admissibility.pdf
- Điểm A, B, C, D Điều 413: Vụ kiện này hoàn toàn hợp pháp theo qui định của UNCLOS mà TQ là một signatory. Việc TQ và các bên thứ ba liên quan (như VN) không tham dự phiên toà không ảnh hưởng đến tính hợp pháp của phiên toà.
- Điểm E: DOC 2002 ký giữa TQ và các nước ASEAN cũng như một số hiệp ước quốc tế khác không phải là rào cản pháp lý đối với phiên toà này. Điểm F cho rằng Philippines đã tìm cách đàm phán với TQ nhưng vụ việc chưa được giải quyết nên đó là tiền đề của phiên toà này.
- Điểm G: Các submission: 3, 4, 6, 7, 10, 11, 13 thuộc thẩm quyền (jurisdiction) phán xử của toà hiện tại. Cụ thể:
+ Sub 3: Scarborough Shoal là "island" hay chỉ là "rock", nếu chỉ là rock thì sẽ không có EEZ mà chỉ có territorial water 12 hải lý.
+ Sub 4: Mischief Reef, Second Thomas Shoal, and Subi Reef chỉ là "low-tide-elevation", nghĩa là không có cả EEZ lẫn territorial water.
+ Sub 6: tương tự như Sub 4 cho Gaven Reef and McKennan Reef (including Hughes Reef).
+ Sub 7: tương tự như Sub 3 cho Johnson Reef, Cuarteron Reef, and Fiery Cross Reef.
+ Sub 10: Philippines khiếu nại TQ về việc ngăn cản "traditional fishing right" của ngư dân Philippines trong khu vực 12 hải lý của Scarborough Shoal.
+ Sub 11: Philippines khiếu nại các hoạt động của TQ có tính chất phá hoại môi trường ở khu vực quanh Scarborough Shoal and Second Thomas Shoal.
+ Sub 13: Philippines khiếu nại các hoạt động tuần tra của TQ quanh khu vực Scarborough Shoal. Phán quyết của PCA nhấn mạnh vào "innocent passage" theo qui định của UNCLOS như là tiền đề của việc họ có jurisdiction. Đây thực sự là cái tát vào mặt bộ Ngoại giao TQ khi mới tuyên bố việc tàu Lassen của Mỹ đi ngang qua Subi và Mischief là hành động "illegal".
- Điểm H: các submission 1, 2, 5, 8, 9, 12, 14 chưa xác định được jurisdiction và PCA sẽ phán quyết về vấn đề này trong merit phase.
+ Sub 1 & 2: yêu cầu PCA làm rõ chủ quyền về tài nguyên trên toàn bộ Biển Đông và vai trò của UNCLOS trong việc xác định vấn đề này. Đây thực chất là yêu cầu PCA phán quyết về hiệu lực của đường 9 đoạn của TQ.
+ Sub 5: yêu cầu PCA làm rõ chủ quyền về tài nguyên trong vùng biển quanh Mischief Reef and Second Thomas Shoal.
+ Sub 8: Philippines khiếu nại việc TQ cản trở các hoạt động tham dò dầu khi và đánh cá trong EEZ của mình.
+ Sub 9: Philippines khiếu nại các hoạt động đánh cá của TQ trong EEZ của mình.
+ Sub 12: Philippines khiếu nại các hoạt động của TQ quanh khu vực Mischief Reef có thể ảnh hưởng đến môi trường.
+ Sub 14: Philippines khiếu nại các hoạt động của TQ quanh khu vực Second Thomas Shoal nơi quân đội Philippines đang chiếm đóng.
http://opiniojuris.org/wp-content/uploads/PH-CN-20151029-Award-on-Jurisdiction-and-Admissibility.pdf
http://opiniojuris.org/wp-content/uploads/PH-CN-20151029-Award-on-Jurisdiction-and-Admissibility.pdf
Tôi vừa update bài viết về vụ kiện Philippines vs China...
Tôi vừa update bài viết về vụ kiện Philippines vs China (http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/07/philippines-vs-china.html) sau khi Toà Trọng tài Quốc tế (PCA) ra phán quyết về jurisdiction.
Về căn bản đây là một thắng lợi cho Philippines khi PCA cho rằng họ chắc chắn có jurisdiction trong 7 trên 15 yêu cầu phân xử (submission) của Philippines. Bảy submission khác PCA sẽ xem xét vấn đề jurisdiction khi tranh biện (merit) các lập luận hai bên đưa ra. Đáng tiếc là submission 1 & 2 của Philippines về đường 9 đoạn nằm trong số 7 submission chưa được PCA công nhận jurisdiction, nghĩa là vẫn có khả năng PCA sẽ không đưa ra phán xử gì liên quan đến vấn đề này.
PS. Trong bài bên dưới của Julian Ku có link đến toàn văn phán quyết 29/10/2015 của PCA, bạn nào quan tâm có thể tham khảo. Tôi sẽ thu xếp đọc và comment trong mấy ngày tới.
http://opiniojuris.org/2015/10/29/breaking-unclos-tribunal-rules-against-china-unanimously-finds-it-has-jurisdiction-over-philippines-south-china-sea-claims/
http://opiniojuris.org/2015/10/29/breaking-unclos-tribunal-rules-against-china-unanimously-finds-it-has-jurisdiction-over-philippines-south-china-sea-claims
Về căn bản đây là một thắng lợi cho Philippines khi PCA cho rằng họ chắc chắn có jurisdiction trong 7 trên 15 yêu cầu phân xử (submission) của Philippines. Bảy submission khác PCA sẽ xem xét vấn đề jurisdiction khi tranh biện (merit) các lập luận hai bên đưa ra. Đáng tiếc là submission 1 & 2 của Philippines về đường 9 đoạn nằm trong số 7 submission chưa được PCA công nhận jurisdiction, nghĩa là vẫn có khả năng PCA sẽ không đưa ra phán xử gì liên quan đến vấn đề này.
PS. Trong bài bên dưới của Julian Ku có link đến toàn văn phán quyết 29/10/2015 của PCA, bạn nào quan tâm có thể tham khảo. Tôi sẽ thu xếp đọc và comment trong mấy ngày tới.
http://opiniojuris.org/2015/10/29/breaking-unclos-tribunal-rules-against-china-unanimously-finds-it-has-jurisdiction-over-philippines-south-china-sea-claims/
http://opiniojuris.org/2015/10/29/breaking-unclos-tribunal-rules-against-china-unanimously-finds-it-has-jurisdiction-over-philippines-south-china-sea-claims
Thursday, October 29, 2015
Bloomberg - Quiet Air Zone Shows China's Struggle to Control Contested Seas...
Bloomberg - Quiet Air Zone Shows China's Struggle to Control Contested Seas http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-28/quiet-air-zone-shows-china-s-struggle-to-control-contested-seas
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-28/quiet-air-zone-shows-china-s-struggle-to-control-contested-seas
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-28/quiet-air-zone-shows-china-s-struggle-to-control-contested-seas
Wednesday, October 28, 2015
Đọc bài này của anh Nguyễn Vạn Phú mất bớt một ít cảm tình với bộ trưởng Bùi Quang Vinh.
Đọc bài này của anh Nguyễn Vạn Phú mất bớt một ít cảm tình với bộ trưởng Bùi Quang Vinh.
Không kể ông Vinh phát biểu rất mập mờ trước QH, việc ông hay MPI không đính chính khi báo chí tường thuật sai gây hiểu lầm trong dư luận cho thấy ông không quan tâm đến điều này. Dù đây là lỗi PR hay một sự cẩu thả cố hữu, bộ trưởng Bùi Quang Vinh nên rút kinh nghiệm và vẫn nên có một lời nói lại với người dân dù anh Phú đã làm giúp.
http://www.thesaigontimes.vn/137642/45000-ti-dong-la-mon-gi?.html
http://www.thesaigontimes.vn/137642/45000-ti-dong-la-mon-gi?.html
Không kể ông Vinh phát biểu rất mập mờ trước QH, việc ông hay MPI không đính chính khi báo chí tường thuật sai gây hiểu lầm trong dư luận cho thấy ông không quan tâm đến điều này. Dù đây là lỗi PR hay một sự cẩu thả cố hữu, bộ trưởng Bùi Quang Vinh nên rút kinh nghiệm và vẫn nên có một lời nói lại với người dân dù anh Phú đã làm giúp.
http://www.thesaigontimes.vn/137642/45000-ti-dong-la-mon-gi?.html
http://www.thesaigontimes.vn/137642/45000-ti-dong-la-mon-gi?.html
Đọc bài này trên Viet-studies về gia đình bà Tâm "hạnh phúc dân tộc" có đoạn:
Đọc bài này trên Viet-studies về gia đình bà Tâm "hạnh phúc dân tộc" có đoạn:
"Không một ai biết được cha đứa bé là ai, cấp trên nơi bà công tác gặng hỏi, bà chỉ im lặng. Vì thế, bà bị khai trừ khỏi tổ chức vì tội “chửa hoang” và phải ra vùng địch sống."
Tôi không hiểu tại sao những người cộng sản lúc đó có thể đẩy một đồng chí của mình, dù bị cho là vi phạm kỷ luật, đang bụng mang dạ chửa ra "vùng địch" sống. Chẳng phải họ vẫn tuyên truyền Ngô Đình Diệm đang "lê máy chém" khắp miền Nam đó sao? Nếu đó không phải là một nhiệm vụ bí mật thì quả thực các đồng chí của bà Thời quá nhẫn tâm. Hay bản thân họ không tin vào những lời tuyên truyền, cho rằng bà Thời ra "vùng địch" sẽ có điều kiện sinh nở tốt hơn?
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=827982
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=827982
"Không một ai biết được cha đứa bé là ai, cấp trên nơi bà công tác gặng hỏi, bà chỉ im lặng. Vì thế, bà bị khai trừ khỏi tổ chức vì tội “chửa hoang” và phải ra vùng địch sống."
Tôi không hiểu tại sao những người cộng sản lúc đó có thể đẩy một đồng chí của mình, dù bị cho là vi phạm kỷ luật, đang bụng mang dạ chửa ra "vùng địch" sống. Chẳng phải họ vẫn tuyên truyền Ngô Đình Diệm đang "lê máy chém" khắp miền Nam đó sao? Nếu đó không phải là một nhiệm vụ bí mật thì quả thực các đồng chí của bà Thời quá nhẫn tâm. Hay bản thân họ không tin vào những lời tuyên truyền, cho rằng bà Thời ra "vùng địch" sẽ có điều kiện sinh nở tốt hơn?
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=827982
http://www.xaluan.com/modules.php?name=News&file=article&sid=827982
Đây là một trong những bài báo hiếm hoi có nhận định rất tỉnh táo về vụ khu trục hạm Lassen đi vào vùng 12 hải lý...
Đây là một trong những bài báo hiếm hoi có nhận định rất tỉnh táo về vụ khu trục hạm Lassen đi vào vùng 12 hải lý quanh Subi và Mischief reef. Tác giả nói đúng là nếu Mỹ chỉ áp dụng nguyên tắc "innocent passage" chứ không phải "freedom of navigation" thì điều này hoàn toàn không phủ nhận chủ quyền (territorial water) của TQ trong phạm vi 12 hải lý quanh các đảo đá đó.
Những người "lạc quan" có thể nói nhưng Mỹ tuyên bố thực hiện "patrol and surveillance", nghĩa là vượt quá giới hạn "innocent passage" bình thường. Hơn nữa việc TQ cho tàu ra theo dõi và cảnh cáo (chắc gọi điện đàm cho tàu Mỹ) rồi sau đó triệu hồi đại sứ Mỹ để phản đối cho thấy chính TQ không coi động thái này của Mỹ là "innocent passage" hoặc TQ không chấp nhận nguyên tắc "innocent passage" của UNCLOS. Đằng nào thì đây cũng là một cuộc "đụng đầu" giữa Mỹ và TQ, các nước nhỏ khác sẽ có lợi.
Nhưng như bài báo đã chỉ ra Mỹ trước đây cũng "đụng đầu" với TQ trong vụ không công nhận ADIZ của TQ trên biển Hoa Đông. Nhưng rồi vụ việc chìm dần và đến giờ ADIZ này nghiễm nhiên được enforced khi các hãng hàng không bay qua đây phải báo cáo với TQ (không rõ Vietnam Airlines có báo không khi bay tới Tokyo). Mỹ chỉ cho máy bay chiến đấu bay vào ADIZ Hoa Đông một lần rồi thôi, có lẽ chỉ để xoa dịu các đồng minh trong khu vực. Liệu Mỹ có tiếp tục cho tầu đi patrol, thậm chí thả neo lại, cách các đảo đá đó dưới 12 hải lý?
Tôi chia sẻ quan điểm thận trọng của bài báo và cho rằng những từ ngữ to tác như "dằn mặt", 'bác bỏ chủ quyền của TQ" ... không thích hợp trong trường hợp này.
http://www.thanhnien.com.vn/the-gioi/tau-my-ap-sat-dao-nhan-tao-roi-sao-nua-626777.html
http://www.thanhnien.com.vn/the-gioi/tau-my-ap-sat-dao-nhan-tao-roi-sao-nua-626777.html
Những người "lạc quan" có thể nói nhưng Mỹ tuyên bố thực hiện "patrol and surveillance", nghĩa là vượt quá giới hạn "innocent passage" bình thường. Hơn nữa việc TQ cho tàu ra theo dõi và cảnh cáo (chắc gọi điện đàm cho tàu Mỹ) rồi sau đó triệu hồi đại sứ Mỹ để phản đối cho thấy chính TQ không coi động thái này của Mỹ là "innocent passage" hoặc TQ không chấp nhận nguyên tắc "innocent passage" của UNCLOS. Đằng nào thì đây cũng là một cuộc "đụng đầu" giữa Mỹ và TQ, các nước nhỏ khác sẽ có lợi.
Nhưng như bài báo đã chỉ ra Mỹ trước đây cũng "đụng đầu" với TQ trong vụ không công nhận ADIZ của TQ trên biển Hoa Đông. Nhưng rồi vụ việc chìm dần và đến giờ ADIZ này nghiễm nhiên được enforced khi các hãng hàng không bay qua đây phải báo cáo với TQ (không rõ Vietnam Airlines có báo không khi bay tới Tokyo). Mỹ chỉ cho máy bay chiến đấu bay vào ADIZ Hoa Đông một lần rồi thôi, có lẽ chỉ để xoa dịu các đồng minh trong khu vực. Liệu Mỹ có tiếp tục cho tầu đi patrol, thậm chí thả neo lại, cách các đảo đá đó dưới 12 hải lý?
Tôi chia sẻ quan điểm thận trọng của bài báo và cho rằng những từ ngữ to tác như "dằn mặt", 'bác bỏ chủ quyền của TQ" ... không thích hợp trong trường hợp này.
http://www.thanhnien.com.vn/the-gioi/tau-my-ap-sat-dao-nhan-tao-roi-sao-nua-626777.html
http://www.thanhnien.com.vn/the-gioi/tau-my-ap-sat-dao-nhan-tao-roi-sao-nua-626777.html
Saturday, October 24, 2015
Bloomberg - What Will It Mean If the Yuan Gets Reserve-Currency Status? http://bloom.bg/1S1QKFk
Bloomberg - What Will It Mean If the Yuan Gets Reserve-Currency Status? http://bloom.bg/1S1QKFk
http://bloom.bg/1S1QKFk
http://bloom.bg/1S1QKFk
Có một điểm tôi không đồng ý với bạn Huỳnh Thế Du trong bài này.
Có một điểm tôi không đồng ý với bạn Huỳnh Thế Du trong bài này.
Tôi không đồng tình với việc bổ nhiệm các cán bộ trẻ trong hình dưới đây, không hẳn vì họ đều là "thái tử Đảng" mà vì không đồng ý với qui trình bổ nhiệm. Chừng nào các cơ quan quyền lực VN (nhà nước, ĐCS) còn tiếp tục hình thức "cơ cấu cán bộ" úp úp mở mở từ trên xuống, chừng đó vẫn còn những kẻ kém năng lực lọt vào bộ máy lãnh đạo, thái tử hay nịnh thần. Tư duy chọn hạt giống (đỏ), rồi cho đi cơ sở, quay vòng các bộ, các tỉnh... là tư duy central planning, sẽ luôn kém hiệu quả so với open competition/democratic selection.
Việc cơ cấu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo còn có một khiếm khuyết rất quan trọng nữa. Đó là hệ thống này không có hoặc rất yếu về khả năng loại bỏ những người kém năng lực và/hoặc biến chất. Một khi không có cơ chế loại bỏ những lãnh đạo yếu sẽ rất khó để người giỏi hơn ngoi lên, cơ cấu hay không. Một thể chế với bầu cử công khai và dân chủ không phải lúc nào cũng chọn được người tài, nhưng những kẻ yếu kém không thể ngồi lâu.
PS. Mấy hôm nay thấy nhiều ngừoi khen con trai Hun Sen học hành bài bản, hay bạn Du cho rằng các cán bộ trẻ mới được đề bạt đều học ở các nước tiên tiến về. Hãy nhớ rằng Kim Jong Un cũng từng học ở Thuỵ Sỹ, con trai Gaddafi từng làm PhD ở LSE, con Bạc Lai Hy học ở Harvard. Việc các trường đại học danh tiếng nhận và ưu ái con cái các nhà độc tài/lãnh đạo các nước không phải hiếm, họ có động cơ của họ. Tôi không phủ nhận có đi học vẫn hơn và có những COCC rất có tố chất, nhưng đừng đề cao quá bằng cấp nước ngoài (trường xịn) của họ cũng như đừng quá kỳ vọng vào bằng cấp.
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/268986/nhan-su-u40--cai-cach-tao-bao.html
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/268986/nhan-su-u40--cai-cach-tao-bao.html
Tôi không đồng tình với việc bổ nhiệm các cán bộ trẻ trong hình dưới đây, không hẳn vì họ đều là "thái tử Đảng" mà vì không đồng ý với qui trình bổ nhiệm. Chừng nào các cơ quan quyền lực VN (nhà nước, ĐCS) còn tiếp tục hình thức "cơ cấu cán bộ" úp úp mở mở từ trên xuống, chừng đó vẫn còn những kẻ kém năng lực lọt vào bộ máy lãnh đạo, thái tử hay nịnh thần. Tư duy chọn hạt giống (đỏ), rồi cho đi cơ sở, quay vòng các bộ, các tỉnh... là tư duy central planning, sẽ luôn kém hiệu quả so với open competition/democratic selection.
Việc cơ cấu cán bộ vào các vị trí lãnh đạo còn có một khiếm khuyết rất quan trọng nữa. Đó là hệ thống này không có hoặc rất yếu về khả năng loại bỏ những người kém năng lực và/hoặc biến chất. Một khi không có cơ chế loại bỏ những lãnh đạo yếu sẽ rất khó để người giỏi hơn ngoi lên, cơ cấu hay không. Một thể chế với bầu cử công khai và dân chủ không phải lúc nào cũng chọn được người tài, nhưng những kẻ yếu kém không thể ngồi lâu.
PS. Mấy hôm nay thấy nhiều ngừoi khen con trai Hun Sen học hành bài bản, hay bạn Du cho rằng các cán bộ trẻ mới được đề bạt đều học ở các nước tiên tiến về. Hãy nhớ rằng Kim Jong Un cũng từng học ở Thuỵ Sỹ, con trai Gaddafi từng làm PhD ở LSE, con Bạc Lai Hy học ở Harvard. Việc các trường đại học danh tiếng nhận và ưu ái con cái các nhà độc tài/lãnh đạo các nước không phải hiếm, họ có động cơ của họ. Tôi không phủ nhận có đi học vẫn hơn và có những COCC rất có tố chất, nhưng đừng đề cao quá bằng cấp nước ngoài (trường xịn) của họ cũng như đừng quá kỳ vọng vào bằng cấp.
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/268986/nhan-su-u40--cai-cach-tao-bao.html
http://vietnamnet.vn/vn/chinh-tri/268986/nhan-su-u40--cai-cach-tao-bao.html
Friday, October 23, 2015
Tôi để ý mấy năm gần đây cứ mỗi khi QH họp thì VNEconomy lại có bài bênh/khen NHNN.
Tôi để ý mấy năm gần đây cứ mỗi khi QH họp thì VNEconomy lại có bài bênh/khen NHNN. Thực ra đây là dấu hiệu tốt vì chứng tỏ QH bắt đầu có trọng lượng chứ không phải chỉ là rubber-stamp như trước kia. Bài link bên dưới là một trong số những bài báo như vậy.
Trước hết phải nói rõ tôi không phản đối việc mua lại một số ngân hàng với giá 0 VND dù tôi prefer phương án để những ngân hàng đó phá sản hơn. Tôi đã viết rất kỹ vấn đề này cách đây mấy tháng (http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2015/02/vncb.html) và sẽ không nhắc lại nữa. Ở đây tôi chỉ muốn làm rõ thêm hai điểm.
Thứ nhất, nhà báo Minh Đức cho rằng trước đây một số ngân hàng như Nam Đô, Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Hoa đã bị phá sản. NHNN đã rút giấy phép kinh doanh và cho phép thanh lý. Về mặt pháp lý điều này không phải là phá sản theo Luật Phá sản 2014 của VN. Một ngân hàng (hay doanh nghiệp) bị phá sản khi nó mất khả năng thanh toán và bị một toà án tuyên bố phá sản. Khái niệm phá sản này phổ biến ở nhiều nước chứ không phải chỉ riêng VN. Bị rút giấy phép và tiến hành thanh lý chỉ là giải thể chứ không phải phá sản.
Về mặt thực tế phá sản (ngân hàng hay doanh nghiệp) luôn xảy ra khi owners' equity bị âm, nghĩa là tất cả shareholders sẽ mất sạch tài sản và nhiều khả năng một số creditors của doanh nghiệp đó cũng sẽ mất số tiền đã cho vay hoặc đã ứng trước. Chính sự mất mát của các creditor là đặc thù của quá trình phá sản của một doanh nghiệp có trách nhiệm hữu hạn. Một nền kinh tế thị trường hiện đại luôn được xây dựng trên khái niệm limited-liability để khuyến khích các hoạt động risk-taking, là động lực cho sự phát triển. Phá sản (của doanh nghiệp có limited liability) là một cách chia sẻ rủi ro trong nền kinh tế. Bởi vậy phá sản rất quan trọng và cần thiết.
Thứ hai, điều mà bài báo không đề cập đến là trách nhiệm giám sát của NHNN ở đâu để cho những ngân hàng đó lâm vào tình trạng mất sạch vốn như vậy. Nên nhớ các ngân hàng phải đảm bảo CAR tối thiểu và sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi NHNN thấy có vấn đề. Cho nên NHNN đã phải giám sát những ngân hàng đó ngay từ khi CAR giảm xuống dưới 8% chứ không phải đợi đến khi vốn bị âm. Từ thời điểm giám sát đặc biệt đó tổng tài sản có giảm hay không hay vốn chủ sở hữu có tăng hay không (để đưa CAR về ngưỡng an toàn), nếu không NHNN đã không hoàn thành trách nhiệm giám sát.
Dù tôi luôn phản đối việc hình sự hoá các tội phạm kinh tế, nhưng nếu NHNN cho rằng các ngân hàng thua lỗ vì có những hoạt động trái luật thì trách nhiệm của NHNN là phải báo cho cơ quan công tố để xử lý theo đúng pháp luật hiện hành. NHNN không được sử dụng những thông tin đó để ép các cổ đông phải bán với giá 0 VND hay ký giấy uỷ thác vô điều kiện/vô thời hạn. Nếu những hoạt động bất hợp pháp xảy ra trong giai đoạn giám sát đặc biệt thì vai trò giám sát của NHNN ở đâu?
Cái mà QH, hay một uỷ ban đặc biệt của QH, cần tìm hiểu là trách nhiệm giám sát của NHNN chứ không phải mua như vậy đắt hay rẻ, sẽ có lời hay lỗ. Còn nếu muốn biết NHNN có vô tư không khi đưa ra một khái niệm rất mơ hồ "giữ an toàn hệ thống" để mua lại mấy ngân hàng với giá 0 VND thì QH cần yêu cầu NHNN minh bạch tất cả sổ sách của các ngân hàng đó. Tôi vẫn luôn nghi ngờ một vài ngân hàng nhỏ và đã bị đặt vào tình trạng giám sát đặc biệt một thời gian dài lại có thể gây bất ổn cho hệ thống khi phải tuyên bố phá sản.
http://vneconomy.vn/tai-chinh/ngan-hang-0-dong-tai-viet-nam-tu-a-den-z-2015100610277741.htm
http://vneconomy.vn/tai-chinh/ngan-hang-0-dong-tai-viet-nam-tu-a-den-z-2015100610277741.htm
Trước hết phải nói rõ tôi không phản đối việc mua lại một số ngân hàng với giá 0 VND dù tôi prefer phương án để những ngân hàng đó phá sản hơn. Tôi đã viết rất kỹ vấn đề này cách đây mấy tháng (http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2015/02/vncb.html) và sẽ không nhắc lại nữa. Ở đây tôi chỉ muốn làm rõ thêm hai điểm.
Thứ nhất, nhà báo Minh Đức cho rằng trước đây một số ngân hàng như Nam Đô, Châu Á - Thái Bình Dương, Việt Hoa đã bị phá sản. NHNN đã rút giấy phép kinh doanh và cho phép thanh lý. Về mặt pháp lý điều này không phải là phá sản theo Luật Phá sản 2014 của VN. Một ngân hàng (hay doanh nghiệp) bị phá sản khi nó mất khả năng thanh toán và bị một toà án tuyên bố phá sản. Khái niệm phá sản này phổ biến ở nhiều nước chứ không phải chỉ riêng VN. Bị rút giấy phép và tiến hành thanh lý chỉ là giải thể chứ không phải phá sản.
Về mặt thực tế phá sản (ngân hàng hay doanh nghiệp) luôn xảy ra khi owners' equity bị âm, nghĩa là tất cả shareholders sẽ mất sạch tài sản và nhiều khả năng một số creditors của doanh nghiệp đó cũng sẽ mất số tiền đã cho vay hoặc đã ứng trước. Chính sự mất mát của các creditor là đặc thù của quá trình phá sản của một doanh nghiệp có trách nhiệm hữu hạn. Một nền kinh tế thị trường hiện đại luôn được xây dựng trên khái niệm limited-liability để khuyến khích các hoạt động risk-taking, là động lực cho sự phát triển. Phá sản (của doanh nghiệp có limited liability) là một cách chia sẻ rủi ro trong nền kinh tế. Bởi vậy phá sản rất quan trọng và cần thiết.
Thứ hai, điều mà bài báo không đề cập đến là trách nhiệm giám sát của NHNN ở đâu để cho những ngân hàng đó lâm vào tình trạng mất sạch vốn như vậy. Nên nhớ các ngân hàng phải đảm bảo CAR tối thiểu và sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt khi NHNN thấy có vấn đề. Cho nên NHNN đã phải giám sát những ngân hàng đó ngay từ khi CAR giảm xuống dưới 8% chứ không phải đợi đến khi vốn bị âm. Từ thời điểm giám sát đặc biệt đó tổng tài sản có giảm hay không hay vốn chủ sở hữu có tăng hay không (để đưa CAR về ngưỡng an toàn), nếu không NHNN đã không hoàn thành trách nhiệm giám sát.
Dù tôi luôn phản đối việc hình sự hoá các tội phạm kinh tế, nhưng nếu NHNN cho rằng các ngân hàng thua lỗ vì có những hoạt động trái luật thì trách nhiệm của NHNN là phải báo cho cơ quan công tố để xử lý theo đúng pháp luật hiện hành. NHNN không được sử dụng những thông tin đó để ép các cổ đông phải bán với giá 0 VND hay ký giấy uỷ thác vô điều kiện/vô thời hạn. Nếu những hoạt động bất hợp pháp xảy ra trong giai đoạn giám sát đặc biệt thì vai trò giám sát của NHNN ở đâu?
Cái mà QH, hay một uỷ ban đặc biệt của QH, cần tìm hiểu là trách nhiệm giám sát của NHNN chứ không phải mua như vậy đắt hay rẻ, sẽ có lời hay lỗ. Còn nếu muốn biết NHNN có vô tư không khi đưa ra một khái niệm rất mơ hồ "giữ an toàn hệ thống" để mua lại mấy ngân hàng với giá 0 VND thì QH cần yêu cầu NHNN minh bạch tất cả sổ sách của các ngân hàng đó. Tôi vẫn luôn nghi ngờ một vài ngân hàng nhỏ và đã bị đặt vào tình trạng giám sát đặc biệt một thời gian dài lại có thể gây bất ổn cho hệ thống khi phải tuyên bố phá sản.
http://vneconomy.vn/tai-chinh/ngan-hang-0-dong-tai-viet-nam-tu-a-den-z-2015100610277741.htm
http://vneconomy.vn/tai-chinh/ngan-hang-0-dong-tai-viet-nam-tu-a-den-z-2015100610277741.htm
Bloomberg - IMF Said to Give China Strong Signs of Reserve-Currency Nod http://bloom.bg/1Rsl5Mm
Bloomberg - IMF Said to Give China Strong Signs of Reserve-Currency Nod http://bloom.bg/1Rsl5Mm
Đọc tin này hơi thất vọng.
Đọc tin này hơi thất vọng. Vẫn biết việc Mỹ đưa tàu chiến vào phạm vi 12 hải lý của các đảo nhân tạo do TQ xây ở khu vực TS là một vấn đề chính trị chứ không phải quân sự, nhưng một ông đô đốc hải quân Mỹ nói trắng ra như vậy có vẻ hơi yếu. Đáng ra ông này nên nói hải quân Mỹ sẽ thực hiện các chuyến tuần tiễu tuân thủ theo luật pháp quốc tế, bất kể có gần các công trình nhân tạo do TQ xây dựng hay không. Việc policymakers ở Washington có yêu cầu hải quân làm điều đó hay không là chuyện nội bộ, việc gì phải công bố ra như vậy.
Còn phía VN khôn ngoan nhất là tuyên bố sẽ không cản trở bất kỳ hoạt động nào của Mỹ cũng như các nước khác nếu họ tuân thủ theo luật pháp quốc tế (UNCLOS). Mạnh mồm hơn có thể nói sẽ hợp tác với Mỹ và các nước khác trong việc tuần tra Biển Đông để đảm bảo an toàn và tự do hàng hải trong khu vực.
http://www.businessinsider.com/ap-us-admiral-policymakers-to-decide-south-china-sea-patrols-2015-10?IR=T
http://www.businessinsider.com/ap-us-admiral-policymakers-to-decide-south-china-sea-patrols-2015-10?IR=T
Còn phía VN khôn ngoan nhất là tuyên bố sẽ không cản trở bất kỳ hoạt động nào của Mỹ cũng như các nước khác nếu họ tuân thủ theo luật pháp quốc tế (UNCLOS). Mạnh mồm hơn có thể nói sẽ hợp tác với Mỹ và các nước khác trong việc tuần tra Biển Đông để đảm bảo an toàn và tự do hàng hải trong khu vực.
http://www.businessinsider.com/ap-us-admiral-policymakers-to-decide-south-china-sea-patrols-2015-10?IR=T
http://www.businessinsider.com/ap-us-admiral-policymakers-to-decide-south-china-sea-patrols-2015-10?IR=T
Nhân vật phản diện Biff Tannen trong "Back to the future II" năm 1989 được xây dựng dựa theo hình mẫu của Donald...
Nhân vật phản diện Biff Tannen trong "Back to the future II" năm 1989 được xây dựng dựa theo hình mẫu của Donald Trump ngoài đời thật. Bộ phim này dự báo Mỹ sẽ có nữ tổng thống vào năm 2015, tuy sai nhưng rất có thể chỉ bị sớm 2 năm.
http://www.businessinsider.com/the-villain-from-back-to-the-future-is-based-on-donald-trump-2015-10
http://www.businessinsider.com/the-villain-from-back-to-the-future-is-based-on-donald-trump-2015-10?IR=T
http://www.businessinsider.com/the-villain-from-back-to-the-future-is-based-on-donald-trump-2015-10
http://www.businessinsider.com/the-villain-from-back-to-the-future-is-based-on-donald-trump-2015-10?IR=T
Thursday, October 22, 2015
Tôi không quan tâm đến thơ và hiếm khi nào đọc thơ, bởi vậy không có ý định viết gì về vụ "đạo thơ" đang rất nóng...
Tôi không quan tâm đến thơ và hiếm khi nào đọc thơ, bởi vậy không có ý định viết gì về vụ "đạo thơ" đang rất nóng trên mạng. Nhưng thấy bạn Hana Nguyen hỏi câu "đạo thơ là vấn đề đạo đức hay pháp luật" nên chợt nhớ đến chủ đề này đã định viết từ lâu.
Khi một cá nhân sống/hành xử/làm việc trong một cộng đồng anh/chị ta phải tuân thủ theo một số qui tắc để tránh ảnh hưởng (xấu) đến người khác. Tất nhiên thống nhất những qui tắc hành xử đó rất khó vì quan điểm của mỗi người khác nhau. Trong một xã hội hiện đại các qui tắc hành xử có thể phân loại thành ba nhóm: (i) qui tắc qui định bởi luật pháp nhà nước (hoặc quốc tế), (ii) qui tắc qui định bởi các tổ chức xã hội, (iii) qui tắc xác định bởi hệ thống các chuẩn mực đạo đức.
Một nguyên tắc chung của các nhóm qui tắc hành xử đó là mức độ bao trùm và nghiêm ngặt tỷ lệ nghịch với khả năng enforcement và những qui tắc khó enforce sẽ ở nhóm ii hoặc iii. Lấy ví dụ luật pháp VN (nhóm i) không coi ngoại tình là phạm pháp nhưng điều lệ Đảng (nhóm ii) coi đây là một điều xấu còn chuẩn mực đạo đức xã hội (nhóm iii) không chấp nhận điều này, nghĩa là nhóm iii "khó tính" nhất. Tất nhiên "cấm ngoại tình" là một điều rất khó enforce.
Quay lại vấn đề "đạo thơ". Tất nhiên đây là điều cấm kỵ về đạo đức (nhóm iii) và thường cũng bị cấm ở nhóm ii, vd qui định của Hội nhà văn, của nhà xuất bản, hoặc của cơ quan mà người đạo thơ làm việc. Nhưng trừ khi bài thơ vi phạm vấn đề tác quyền (và phải gây tác hại về mặt vật chất cho tác giả thực) thì mới liên quan đến luật pháp (nhóm i). Khi việc "đạo thơ" bị phát hiện thì vấn đề enforcement ở nhóm i sẽ rất chặt, tòa án hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyển sẽ "ra lệnh" cho bên vi phạm phải bồi hoàn thiệt hại. Enforcement ở nhóm ii cũng rất chặt nhưng chỉ có tính một chiều, vd tước giải hay đuổi việc/khai trừ thành viên.
Enforcement ở nhóm iii như đã nói, rất khó. Ngoài việc bị xã hội/cộng đồng lên án, bạn bè/người quen xa lánh, đương sự chỉ bị tổn thương về mặt tinh thần. Nếu người này khá giả để có thể thay tên đổi họ và ra nước ngoài sinh sống thì những enforcement về mặt xã hội sẽ không/ít có ý nghĩa. Như vậy để các thành viên trong xã hội tự giác tuân thủ các qui tắc đạo đức (nhóm iii) thì điều quan trọng là họ phải cảm thấy tổn thương tinh thần rất nặng nề.
Điều này phụ thuộc vào truyền thống văn hóa/lịch sử, môi trường xã hội/gia đình và nhất là vai trò của tôn giáo. Nhưng phải là tôn giáo đích thực, chứ kiểu tôn giáo "học tập tấm gương đạo đức..." hoặc các thể loại "mua thần bán thánh" tràn lan hiện nay thì hậu quả đã nhãn tiền.
Một điểm nữa mà tôi muốn chia sẻ là kinh nghiệm xây dựng các giá trị đạo đức trong giới finance của CFA Institute, một tổ chức nghề nghiệp rất uy tín. CFA Institute có một bộ tiêu chuẩn (Standards of Professional Conduct) bắt buộc với các thành viên (qui tắc nhóm ii) nhưng đồng thời gắn liền bộ tiêu chuẩn này với các giá trị đạo đức (nhóm iii). Một thành viên của CFA Institute bị coi là vi phạm các qui tắc nhóm ii nếu vi phạm một trong những qui tắc của nhóm iii, tất nhiên nếu vi phạm pháp luật (nhóm i) thì nghiễm nhiên bị coi là vi phạm nhóm ii.
Như vậy CFA Institute đã trói buộc trách nhiệm tuân thủ các qui tắc nhóm iii vào nhóm ii dễ bề enforce (họ có hội đồng điều tra và xét xử các cáo buộc thành viên vi phạm ethics hoặc standards). Nhiều tổ chức dân sự khác cũng có hình thức kết hợp như vậy thay vì giao phó hoàn toàn cho "lương tâm" của các thành viên để enforce nhóm iii. Điều này chỉ có thể thực hiện được trong một số cộng đồng nhỏ và cộng đồng đó phải đem lại nhiều quyền lợi cho các thành viên. Do đó muốn đi theo cách này vai trò của các tổ chức dân sự phải rất quan trọng và họ phải thực sự độc lập.
Tóm lại chừng nào vai trò của tôn giáo và các tổ chức dân sự trong xã hội VN chưa thực sự mạnh thì khó đảm bảo các chuẩn mực đạo đức sẽ được cải thiện.
https://www.cfainstitute.org/ethics/codes/ethics/Pages/index.aspx
https://www.cfainstitute.org/ethics/codes/ethics/Pages/index.aspx
Khi một cá nhân sống/hành xử/làm việc trong một cộng đồng anh/chị ta phải tuân thủ theo một số qui tắc để tránh ảnh hưởng (xấu) đến người khác. Tất nhiên thống nhất những qui tắc hành xử đó rất khó vì quan điểm của mỗi người khác nhau. Trong một xã hội hiện đại các qui tắc hành xử có thể phân loại thành ba nhóm: (i) qui tắc qui định bởi luật pháp nhà nước (hoặc quốc tế), (ii) qui tắc qui định bởi các tổ chức xã hội, (iii) qui tắc xác định bởi hệ thống các chuẩn mực đạo đức.
Một nguyên tắc chung của các nhóm qui tắc hành xử đó là mức độ bao trùm và nghiêm ngặt tỷ lệ nghịch với khả năng enforcement và những qui tắc khó enforce sẽ ở nhóm ii hoặc iii. Lấy ví dụ luật pháp VN (nhóm i) không coi ngoại tình là phạm pháp nhưng điều lệ Đảng (nhóm ii) coi đây là một điều xấu còn chuẩn mực đạo đức xã hội (nhóm iii) không chấp nhận điều này, nghĩa là nhóm iii "khó tính" nhất. Tất nhiên "cấm ngoại tình" là một điều rất khó enforce.
Quay lại vấn đề "đạo thơ". Tất nhiên đây là điều cấm kỵ về đạo đức (nhóm iii) và thường cũng bị cấm ở nhóm ii, vd qui định của Hội nhà văn, của nhà xuất bản, hoặc của cơ quan mà người đạo thơ làm việc. Nhưng trừ khi bài thơ vi phạm vấn đề tác quyền (và phải gây tác hại về mặt vật chất cho tác giả thực) thì mới liên quan đến luật pháp (nhóm i). Khi việc "đạo thơ" bị phát hiện thì vấn đề enforcement ở nhóm i sẽ rất chặt, tòa án hoặc một cơ quan nhà nước có thẩm quyển sẽ "ra lệnh" cho bên vi phạm phải bồi hoàn thiệt hại. Enforcement ở nhóm ii cũng rất chặt nhưng chỉ có tính một chiều, vd tước giải hay đuổi việc/khai trừ thành viên.
Enforcement ở nhóm iii như đã nói, rất khó. Ngoài việc bị xã hội/cộng đồng lên án, bạn bè/người quen xa lánh, đương sự chỉ bị tổn thương về mặt tinh thần. Nếu người này khá giả để có thể thay tên đổi họ và ra nước ngoài sinh sống thì những enforcement về mặt xã hội sẽ không/ít có ý nghĩa. Như vậy để các thành viên trong xã hội tự giác tuân thủ các qui tắc đạo đức (nhóm iii) thì điều quan trọng là họ phải cảm thấy tổn thương tinh thần rất nặng nề.
Điều này phụ thuộc vào truyền thống văn hóa/lịch sử, môi trường xã hội/gia đình và nhất là vai trò của tôn giáo. Nhưng phải là tôn giáo đích thực, chứ kiểu tôn giáo "học tập tấm gương đạo đức..." hoặc các thể loại "mua thần bán thánh" tràn lan hiện nay thì hậu quả đã nhãn tiền.
Một điểm nữa mà tôi muốn chia sẻ là kinh nghiệm xây dựng các giá trị đạo đức trong giới finance của CFA Institute, một tổ chức nghề nghiệp rất uy tín. CFA Institute có một bộ tiêu chuẩn (Standards of Professional Conduct) bắt buộc với các thành viên (qui tắc nhóm ii) nhưng đồng thời gắn liền bộ tiêu chuẩn này với các giá trị đạo đức (nhóm iii). Một thành viên của CFA Institute bị coi là vi phạm các qui tắc nhóm ii nếu vi phạm một trong những qui tắc của nhóm iii, tất nhiên nếu vi phạm pháp luật (nhóm i) thì nghiễm nhiên bị coi là vi phạm nhóm ii.
Như vậy CFA Institute đã trói buộc trách nhiệm tuân thủ các qui tắc nhóm iii vào nhóm ii dễ bề enforce (họ có hội đồng điều tra và xét xử các cáo buộc thành viên vi phạm ethics hoặc standards). Nhiều tổ chức dân sự khác cũng có hình thức kết hợp như vậy thay vì giao phó hoàn toàn cho "lương tâm" của các thành viên để enforce nhóm iii. Điều này chỉ có thể thực hiện được trong một số cộng đồng nhỏ và cộng đồng đó phải đem lại nhiều quyền lợi cho các thành viên. Do đó muốn đi theo cách này vai trò của các tổ chức dân sự phải rất quan trọng và họ phải thực sự độc lập.
Tóm lại chừng nào vai trò của tôn giáo và các tổ chức dân sự trong xã hội VN chưa thực sự mạnh thì khó đảm bảo các chuẩn mực đạo đức sẽ được cải thiện.
https://www.cfainstitute.org/ethics/codes/ethics/Pages/index.aspx
https://www.cfainstitute.org/ethics/codes/ethics/Pages/index.aspx
Thấy mọi người "truyền tai" nhau, mà theo ngôn ngữ FB là share, trang web này tôi tò mò vào tìm thử vài luận án về...
Thấy mọi người "truyền tai" nhau, mà theo ngôn ngữ FB là share, trang web này tôi tò mò vào tìm thử vài luận án về kinh tế để xem chất lượng thế nào. Đáng tiếc là trang web không cho browse theo lĩnh vực và/hoặc tác giả nên phải search hú họa. Tôi search thử từ khóa "vĩ mô" thì thấy một luận án có tên là:
"Sự điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương (Kinh ngiệm Hoa Kỳ - Pháp - Đức - Nhật và Hàn Quốc)"
của tác giả Lê Vinh Danh, bảo vệ năm 1996 tại Viện Kinh tế Thế giới, mã kho LA96.0897.3. Nhưng luận án này lại chỉ có 1 trang thông tin, toàn văn luận án không/chưa được đưa lên web mà phải đến Thư viện Quốc gia đọc, nghĩa là những người không ở Hà Nội như tôi đành chịu.
Xem thử vài luận án khác hóa ra tất cả đều chỉ được scan vài chục trang đầu. Chưa nói về chất lượng một vấn đề chung trong những luận án tôi xem qua là citation/reference rất kém, kể cả những luận văn gần đây. Có thể chưa đến mức plagiarism trắng trợn nhưng những người làm nghiên cứu nên tuân thủ thật nghiêm túc các qui tắc citation/reference, trước khi lên án ai đó "đạo thơ" hay "đạo nhạc".
http://luanan.nlv.gov.vn/
http://luanan.nlv.gov.vn
"Sự điều tiết kinh tế vĩ mô của ngân hàng trung ương (Kinh ngiệm Hoa Kỳ - Pháp - Đức - Nhật và Hàn Quốc)"
của tác giả Lê Vinh Danh, bảo vệ năm 1996 tại Viện Kinh tế Thế giới, mã kho LA96.0897.3. Nhưng luận án này lại chỉ có 1 trang thông tin, toàn văn luận án không/chưa được đưa lên web mà phải đến Thư viện Quốc gia đọc, nghĩa là những người không ở Hà Nội như tôi đành chịu.
Xem thử vài luận án khác hóa ra tất cả đều chỉ được scan vài chục trang đầu. Chưa nói về chất lượng một vấn đề chung trong những luận án tôi xem qua là citation/reference rất kém, kể cả những luận văn gần đây. Có thể chưa đến mức plagiarism trắng trợn nhưng những người làm nghiên cứu nên tuân thủ thật nghiêm túc các qui tắc citation/reference, trước khi lên án ai đó "đạo thơ" hay "đạo nhạc".
http://luanan.nlv.gov.vn/
http://luanan.nlv.gov.vn
Bloomberg - The Strongest El Nino in Decades Is Going to Mess With Everything http://bloom.bg/1RpaqCa
Bloomberg - The Strongest El Nino in Decades Is Going to Mess With Everything http://bloom.bg/1RpaqCa
Wednesday, October 21, 2015
Có ai là fan của series phim "Back to the future" giống tôi không?
Có ai là fan của series phim "Back to the future" giống tôi không? Hôm nay, 21/10/2015, là ngày Marty và Doc bay từ năm 1989 trở về trong tập 2 của series phim đó. Báo chí từ sáng tới giờ dồn dập bài kỷ niệm sự kiện này. Bài báo link bên dưới review lại một số dự báo về năm 2015 trong bộ phim như drone hay Mỹ sẽ có nữ tổng thống.
Nếu bỗng dưng Marty và Doc xuất hiện trước mặt và cho bạn chọn 1 trong 2 chuyến time travel, hoặc về năm 1989 hoặc đến năm 2029 bạn sẽ chọn chuyến đi nào?
http://www.businessinsider.com/back-to-the-future-day-2015-10
http://www.businessinsider.com/back-to-the-future-day-2015-10?IR=T
Nếu bỗng dưng Marty và Doc xuất hiện trước mặt và cho bạn chọn 1 trong 2 chuyến time travel, hoặc về năm 1989 hoặc đến năm 2029 bạn sẽ chọn chuyến đi nào?
http://www.businessinsider.com/back-to-the-future-day-2015-10
http://www.businessinsider.com/back-to-the-future-day-2015-10?IR=T
Tuesday, October 20, 2015
Hôm nay giới tài chính tốn không biết bao nhiêu thời gian chơi cái game này của Bloomberg.
Hôm nay giới tài chính tốn không biết bao nhiêu thời gian chơi cái game này của Bloomberg. Các bạn thử chơi cách này xem sau:
- Chơi thử 10 lần vận dụng tối đa dự đoán/cảm giác của mình về xu hướng giá rồi tính average return.
- Chơi tiếp 10 lần hoàn toàn ngẫu nhiên, thậm chí nhắm mắt bấm buy/sell, rồi tính average return.
So sánh 2 kết quả xem cái nào cao hơn :-)
http://www.bloomberg.com/features/2015-stock-chart-trading-game/
http://www.bloomberg.com/features/2015-stock-chart-trading-game
- Chơi thử 10 lần vận dụng tối đa dự đoán/cảm giác của mình về xu hướng giá rồi tính average return.
- Chơi tiếp 10 lần hoàn toàn ngẫu nhiên, thậm chí nhắm mắt bấm buy/sell, rồi tính average return.
So sánh 2 kết quả xem cái nào cao hơn :-)
http://www.bloomberg.com/features/2015-stock-chart-trading-game/
http://www.bloomberg.com/features/2015-stock-chart-trading-game
Monday, October 19, 2015
Lại một lần nữa nominal GDP của TQ tăng trưởng thấp hơn real GDP (6.2 vs 6.9%).
Lại một lần nữa nominal GDP của TQ tăng trưởng thấp hơn real GDP (6.2 vs 6.9%). Điều này có nghĩa là TQ bị deflation (-0.7%) nếu sử dụng GDP deflator (trong khi đó CPI lại tăng 1.4%). Tất nhiên đa số các nhà kinh tế (nước ngoài) không tin các thống kê của TQ, nhưng ngay cả nếu phương án deflation đúng điều đó cũng là một rủi ro rất lớn cho nền kinh tế. Bạn cứ thử search "debt-deflation" xem giới kinh tế sợ điều này như thế nào. Debt/GDP của TQ đã rất cao.
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2015/10/chinas-data-doubts
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2015/10/chinas-data-doubts
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2015/10/chinas-data-doubts
http://www.economist.com/blogs/freeexchange/2015/10/chinas-data-doubts
Kết quả các cuộc thăm dò dư luận cho thấy phần lớn dân Nga (70%) không có thiện cảm với Mỹ.
Kết quả các cuộc thăm dò dư luận cho thấy phần lớn dân Nga (70%) không có thiện cảm với Mỹ. Nhưng số người Nga muốn đến Mỹ định cư hoặc du học/làm việc tăng cao kỷ lục. Có hơn 265 nghìn đăng ký định cư (theo chương trình Green-card lottery) cho 4000 chỗ và 245 nghìn visa ngắn hạn trong năm 2014. Chưa kể 75 nghìn người Nga đã sang châu Âu trong cùng thời gian.
Tôi không nghĩ người Nga nói dối khi trả lời survey. Rất có thể họ nghĩ nước Mỹ giàu/tốt (hơn Nga) nhưng chính quyền Mỹ (đối với Nga) không tốt. Có điều họ thà sang Mỹ sống và đóng thuế cho cái chính quyền "tồi tệ" đó còn hơn ở lại "cống hiến" cho Putin. Chưa kể một số người Nga cực giàu bỏ Moscow sang Mỹ vì giữ tài sản ở Mỹ ít rủi ro hơn. Có lẽ TQ và VN cũng có không ít những người như vậy, ghét Mỹ nhưng có điều kiện vẫn sẽ sang Mỹ sinh sống/làm việc/học tập. Dilemma!
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-16/if-russians-hate-the-u-s-so-much-why-do-they-want-to-move-there-
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-16/if-russians-hate-the-u-s-so-much-why-do-they-want-to-move-there-
Tôi không nghĩ người Nga nói dối khi trả lời survey. Rất có thể họ nghĩ nước Mỹ giàu/tốt (hơn Nga) nhưng chính quyền Mỹ (đối với Nga) không tốt. Có điều họ thà sang Mỹ sống và đóng thuế cho cái chính quyền "tồi tệ" đó còn hơn ở lại "cống hiến" cho Putin. Chưa kể một số người Nga cực giàu bỏ Moscow sang Mỹ vì giữ tài sản ở Mỹ ít rủi ro hơn. Có lẽ TQ và VN cũng có không ít những người như vậy, ghét Mỹ nhưng có điều kiện vẫn sẽ sang Mỹ sinh sống/làm việc/học tập. Dilemma!
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-16/if-russians-hate-the-u-s-so-much-why-do-they-want-to-move-there-
http://www.bloomberg.com/news/articles/2015-10-16/if-russians-hate-the-u-s-so-much-why-do-they-want-to-move-there-
Nhìn thấy bài này trên Viet-studies tôi đã nghi, click vào đọc quả đúng như vậy.
Nhìn thấy bài này trên Viet-studies tôi đã nghi, click vào đọc quả đúng như vậy. Rất nhiều quan chức/doanh nhân ở VN sử dụng các dịch vụ email miễn phí (yahoo, gmail...) cho công việc, email của ông Nguyễn Xuân Anh cũng vậy: nxa76@yahoo.com. Chưa nói điều này rất thiếu chuyên nghiệp, vấn đề bảo mật cũng như quản lý thông tin sẽ không đảm bảo (e.g. vụ email server của Hillary Clinton).
Có lẽ ĐCS nên thống nhất email cho tất cả các đảng viên, nhất là các lãnh đạo đảng, sử dụng domain cpv.vn hoặc dcs.vn thay vì để họ sử dụng tự do yahoo hay gmail.
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/tan-bi-thu-thanh-uy-da-nang-cong-bo-so-dien-thoai-email-20151019160550273.htm
PS. Các sự kiện ở VN thường hay sử dụng rất nhiều hoa, vô cùng lãng phí. Đưa cái hình này cho người ngoại quốc xem sẽ khối người đoán ông Anh làm nghề bán hoa.
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/tan-bi-thu-thanh-uy-da-nang-cong-bo-so-dien-thoai-email-20151019160550273.htm
Có lẽ ĐCS nên thống nhất email cho tất cả các đảng viên, nhất là các lãnh đạo đảng, sử dụng domain cpv.vn hoặc dcs.vn thay vì để họ sử dụng tự do yahoo hay gmail.
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/tan-bi-thu-thanh-uy-da-nang-cong-bo-so-dien-thoai-email-20151019160550273.htm
PS. Các sự kiện ở VN thường hay sử dụng rất nhiều hoa, vô cùng lãng phí. Đưa cái hình này cho người ngoại quốc xem sẽ khối người đoán ông Anh làm nghề bán hoa.
http://nld.com.vn/thoi-su-trong-nuoc/tan-bi-thu-thanh-uy-da-nang-cong-bo-so-dien-thoai-email-20151019160550273.htm
Bloomberg - Canadians Head to Polls With Trudeau Poised to Oust Harper http://bloom.bg/1OD1Z8u
Bloomberg - Canadians Head to Polls With Trudeau Poised to Oust Harper http://bloom.bg/1OD1Z8u
Bloomberg - China's Selling Tons of U.S. Debt. Americans Couldn't Care Less. http://bloom.bg/1LwiUE0
Bloomberg - China's Selling Tons of U.S. Debt. Americans Couldn't Care Less. http://bloom.bg/1LwiUE0
http://bloom.bg/1LwiUE0
http://bloom.bg/1LwiUE0
Friday, October 16, 2015
J.Lo & Hard Budget Constraint
J.Lo & Hard Budget Constraint
Mấy tháng trước trên một chuyến bay đường dài tôi quyết định xem bộ phim "The boy next door" chủ yếu để xem J.Lo bây giờ đóng phim thế nào. Phim không quá xuất sắc nhưng cũng đáng bỏ thời gian ra xem, có điều J.Lo vẫn đóng rất tệ. Sau chuyến bay tôi quên hẳn bộ phim cho đến mấy hôm trước nghe được podcast này trên NPR.
Nếu một portfolio manager trong vòng 24 ngày biến một khoản đầu tư $4.2 triệu thành $50 triệu thì người đó thực sự là một "người hùng" trong giới finance toàn thế giới. Nhưng đó chưa phải là kỷ lục, anh ta còn có một vụ đầu tư biến $15 nghìn thành $200 triệu cũng trong một khoảng thời gian ngắn. Người đó tên là Jason Blum, nhà sản xuất bộ phim "The boy next door" và là chủ hãng phim Blumhouse Productions.
Trong 5 năm qua Blumhouse có 6 phim nằm trong top 20 những phim có ROI cao nhất Hollywood. Tất nhiên những phim của Blumhouse đều thuộc loại "low budget", cao nhất cũng chỉ vài triệu USD như trường hợp "The boy next door". Hơn 40% phim do Blum sản xuất thậm chí không ra được rạp nhưng chỉ cần 1-2 phim thành công trong số khoảng 10 phim sản xuất một năm là Blum đã đạt được ROI mà nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp phải "ngả mũ".
Mô hình sản xuất phim của Blumhouse Productions tương tự như một quĩ venture capital, bỏ tiền vào rất nhiều khoản đầu tư nhỏ và rất rủi ro, chấp nhận phần lớn sẽ thất bại nhưng một vài thành công đủ giúp quĩ có return rất tốt. Venture capitalist phải có những criteria khi chọn những dự án/công ty có triển vọng để đầu tư. Jason Blum cũng vậy, ông ta nêu ra 3 nguyên tắc để làm phim "low budget": (i) các nhân vật trong phim nói (thoại) càng ít càng tốt, (ii) phim quay ở càng ít địa điểm càng tốt, mà tốt nhất là chỉ ở trong nhà (indoor), (iii) thực hiện profit sharing với đạo diễn và diễn viên thay vì trả lương cố định.
Nhưng thực ra Blum còn một nguyên tắc thứ tư cực kỳ quan trọng: Hard budget constraint. Nghĩa là không bao giờ cho phép một bộ phim được vượt budget. Đạo diễn "The boy next door" là Rob Cohen, đạo diễn đầu tiên của series "The Fast and The Furious", từng làm những bộ phim có budget hơn $100 triệu nhưng không thể "kỳ kèo" thêm dù chỉ vài chục nghìn USD. Chính vì cái "hard budget constraint" này mà Cohen đã phải vận dụng mọi quan hệ của mình ở Hollywood để có thể hoàn thành bộ phim như mong muốn.
Đến đây phải nói thêm về "hard budget constraint". Trong luận văn của tôi có một chương viết về "soft budget constraint", khái niệm do Janos Kornai - một nhà kinh tế gốc Hungary - đưa ra để nói về vấn nạn các công ty nhà nước (SOE) luôn ỷ lại sẽ được nhà nước "giải cứu" nếu làm ăn thua lỗ. Ngoài vấn đề CEO ở các SOE không lo sợ thua lỗ/thất bại nên sẽ có xu hướng làm ăn cẩu thả/liều lĩnh/kém hiệu quả và nhiều trường hợp sẽ dẫn đến tham nhũng/thất thoát, soft budget constraint còn là một hình thức wealth transfer từ người dân/doanh nghiệp tư cho các SOE (và các cán bộ chủ chốt ở đó). Để đảm bảo được hard budget constraint như Blumhouse Productions, chỉ có một con đường duy nhất là phải cổ phần hoá bằng hết các doanh nghiệp nhà nước.
Cũng phải nói thêm một chìa khoá thành công nữa của Blum bên cạnh 3 nguyên tắc làm phim của ông và hard budget constraint. Blum rất khôn khi mời Rob Cohen, một đạo diễn tên tuổi nhưng bị Hollywood ruồng bỏ sau một bộ phim bom tấn thất bại. Cũng với một bài tương tự Blum tham gia làm bộ phim "The Visit" (budget $5 triệu, thu về $83 triệu) với đạo diễn Night Shyamalan, nổi danh với phim The Sixth Sense nhưng cũng đang chìm dần sau một số bộ phim thất bại(*). Diễn viên thì chỉ cần tầm cỡ J.Lo cũng đủ kéo khán giả cỡ như tôi vào rạp :-)
(*) Thông tin về "The Visit" và đạo diễn Shyamalan tôi copy từ SOI chứ kiến thức về điện ảnh của tôi rất "lẹt phẹt".
http://www.npr.org/sections/money/2015/09/11/439632877/episode-650-the-scariest-thing-in-hollywood
http://www.npr.org/sections/money/2015/09/11/439632877/episode-650-the-scariest-thing-in-hollywood
Mấy tháng trước trên một chuyến bay đường dài tôi quyết định xem bộ phim "The boy next door" chủ yếu để xem J.Lo bây giờ đóng phim thế nào. Phim không quá xuất sắc nhưng cũng đáng bỏ thời gian ra xem, có điều J.Lo vẫn đóng rất tệ. Sau chuyến bay tôi quên hẳn bộ phim cho đến mấy hôm trước nghe được podcast này trên NPR.
Nếu một portfolio manager trong vòng 24 ngày biến một khoản đầu tư $4.2 triệu thành $50 triệu thì người đó thực sự là một "người hùng" trong giới finance toàn thế giới. Nhưng đó chưa phải là kỷ lục, anh ta còn có một vụ đầu tư biến $15 nghìn thành $200 triệu cũng trong một khoảng thời gian ngắn. Người đó tên là Jason Blum, nhà sản xuất bộ phim "The boy next door" và là chủ hãng phim Blumhouse Productions.
Trong 5 năm qua Blumhouse có 6 phim nằm trong top 20 những phim có ROI cao nhất Hollywood. Tất nhiên những phim của Blumhouse đều thuộc loại "low budget", cao nhất cũng chỉ vài triệu USD như trường hợp "The boy next door". Hơn 40% phim do Blum sản xuất thậm chí không ra được rạp nhưng chỉ cần 1-2 phim thành công trong số khoảng 10 phim sản xuất một năm là Blum đã đạt được ROI mà nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp phải "ngả mũ".
Mô hình sản xuất phim của Blumhouse Productions tương tự như một quĩ venture capital, bỏ tiền vào rất nhiều khoản đầu tư nhỏ và rất rủi ro, chấp nhận phần lớn sẽ thất bại nhưng một vài thành công đủ giúp quĩ có return rất tốt. Venture capitalist phải có những criteria khi chọn những dự án/công ty có triển vọng để đầu tư. Jason Blum cũng vậy, ông ta nêu ra 3 nguyên tắc để làm phim "low budget": (i) các nhân vật trong phim nói (thoại) càng ít càng tốt, (ii) phim quay ở càng ít địa điểm càng tốt, mà tốt nhất là chỉ ở trong nhà (indoor), (iii) thực hiện profit sharing với đạo diễn và diễn viên thay vì trả lương cố định.
Nhưng thực ra Blum còn một nguyên tắc thứ tư cực kỳ quan trọng: Hard budget constraint. Nghĩa là không bao giờ cho phép một bộ phim được vượt budget. Đạo diễn "The boy next door" là Rob Cohen, đạo diễn đầu tiên của series "The Fast and The Furious", từng làm những bộ phim có budget hơn $100 triệu nhưng không thể "kỳ kèo" thêm dù chỉ vài chục nghìn USD. Chính vì cái "hard budget constraint" này mà Cohen đã phải vận dụng mọi quan hệ của mình ở Hollywood để có thể hoàn thành bộ phim như mong muốn.
Đến đây phải nói thêm về "hard budget constraint". Trong luận văn của tôi có một chương viết về "soft budget constraint", khái niệm do Janos Kornai - một nhà kinh tế gốc Hungary - đưa ra để nói về vấn nạn các công ty nhà nước (SOE) luôn ỷ lại sẽ được nhà nước "giải cứu" nếu làm ăn thua lỗ. Ngoài vấn đề CEO ở các SOE không lo sợ thua lỗ/thất bại nên sẽ có xu hướng làm ăn cẩu thả/liều lĩnh/kém hiệu quả và nhiều trường hợp sẽ dẫn đến tham nhũng/thất thoát, soft budget constraint còn là một hình thức wealth transfer từ người dân/doanh nghiệp tư cho các SOE (và các cán bộ chủ chốt ở đó). Để đảm bảo được hard budget constraint như Blumhouse Productions, chỉ có một con đường duy nhất là phải cổ phần hoá bằng hết các doanh nghiệp nhà nước.
Cũng phải nói thêm một chìa khoá thành công nữa của Blum bên cạnh 3 nguyên tắc làm phim của ông và hard budget constraint. Blum rất khôn khi mời Rob Cohen, một đạo diễn tên tuổi nhưng bị Hollywood ruồng bỏ sau một bộ phim bom tấn thất bại. Cũng với một bài tương tự Blum tham gia làm bộ phim "The Visit" (budget $5 triệu, thu về $83 triệu) với đạo diễn Night Shyamalan, nổi danh với phim The Sixth Sense nhưng cũng đang chìm dần sau một số bộ phim thất bại(*). Diễn viên thì chỉ cần tầm cỡ J.Lo cũng đủ kéo khán giả cỡ như tôi vào rạp :-)
(*) Thông tin về "The Visit" và đạo diễn Shyamalan tôi copy từ SOI chứ kiến thức về điện ảnh của tôi rất "lẹt phẹt".
http://www.npr.org/sections/money/2015/09/11/439632877/episode-650-the-scariest-thing-in-hollywood
http://www.npr.org/sections/money/2015/09/11/439632877/episode-650-the-scariest-thing-in-hollywood
Wednesday, October 14, 2015
Đến giờ tôi mới biết hóa ra chữ Hàn không phải chữ tượng hình mà là tượng thanh (ghép âm).
Đến giờ tôi mới biết hóa ra chữ Hàn không phải chữ tượng hình mà là tượng thanh (ghép âm). Mặc dù được viết dưới dạng các bloc lằng ngoằng giống chữ Hán nhưng thực ra mỗi bloc đó là một tập hợp ghép các nguyên âm và phụ âm giống hệt cách ghép của chữ La tinh. Hệ thống chữ hangul của Hàn có 24 ký tự gồm 14 phụ âm và 10 nguyên âm. Các phụ âm có thể kết hợp với nhau để tạo thành phụ âm mới (tương tự như kh, ng trong tiếng Việt), nguyên âm cũng vậy.
Không rõ khi phát triển hệ thống chữ viết này vào thế kỷ 15 người Hàn có học tập các ngôn ngữ phương Tây không. Phát minh này quả thực sáng tạo hơn rất nhiều hệ thống chữ Nôm của VN vẫn dựa quá nhiều vào chữ Hán. Việc một vị vua Hàn quốc đứng ra thiết kế và phổ biến một hệ thống chữ viết mới đơn giản hơn cho giới bình dân hàng trăm năm trước cho thấy dân tộc này có những lãnh tụ có tầm nhìn rất xa. VN phải đợi đến năm 1945 mới có HCM là lãnh tụ đầu tiên quan tâm đến việc xóa mù chữ cho quảng đại dân chúng (không rõ chính phủ Trần Trọng Kim có nghĩ đến điều này không?).
http://www.economist.com/news/asia/21672358-country-celebrates-ingenious-writing-system-superscript
http://www.economist.com/news/asia/21672358-country-celebrates-ingenious-writing-system-superscript
Không rõ khi phát triển hệ thống chữ viết này vào thế kỷ 15 người Hàn có học tập các ngôn ngữ phương Tây không. Phát minh này quả thực sáng tạo hơn rất nhiều hệ thống chữ Nôm của VN vẫn dựa quá nhiều vào chữ Hán. Việc một vị vua Hàn quốc đứng ra thiết kế và phổ biến một hệ thống chữ viết mới đơn giản hơn cho giới bình dân hàng trăm năm trước cho thấy dân tộc này có những lãnh tụ có tầm nhìn rất xa. VN phải đợi đến năm 1945 mới có HCM là lãnh tụ đầu tiên quan tâm đến việc xóa mù chữ cho quảng đại dân chúng (không rõ chính phủ Trần Trọng Kim có nghĩ đến điều này không?).
http://www.economist.com/news/asia/21672358-country-celebrates-ingenious-writing-system-superscript
http://www.economist.com/news/asia/21672358-country-celebrates-ingenious-writing-system-superscript
Khi Putin chiếm Crimea dưới chiêu bài bảo vệ người Nga ở đó, nhiều người lo ngại TQ sẽ sử dụng lập luận tương tự...
Khi Putin chiếm Crimea dưới chiêu bài bảo vệ người Nga ở đó, nhiều người lo ngại TQ sẽ sử dụng lập luận tương tự trong tương lai. Điều này trở nên rõ ràng hơn khi đại sứ TQ tại Malaysia mới đây đã tuyên bố TQ sẽ không ngồi yên khi người TQ bị hại nhân một vụ biểu tình bài Hoa ở nước này. Tờ The Economist nhận định lời tuyên bố bất chấp TQ vẫn ra rả "không can thiệp vào nội bộ" nước khác là:
"... another sign of a more assertive Chinese foreign policy, and a deliberate signal that the government sees itself as a protector for Chinese everywhere, whatever passport they carry."
Nếu một vụ Bình Dương/Vũng Áng nữa xảy ra liệu Tập Cẩm Bình có bắt chước Putin?
http://www.economist.com/news/asia/21672357-chinas-principle-non-interference-may-not-apply-when-ethnic-chinese-are-concerned-big-motherland
http://www.economist.com/news/asia/21672357-chinas-principle-non-interference-may-not-apply-when-ethnic-chinese-are-concerned-big-motherland
"... another sign of a more assertive Chinese foreign policy, and a deliberate signal that the government sees itself as a protector for Chinese everywhere, whatever passport they carry."
Nếu một vụ Bình Dương/Vũng Áng nữa xảy ra liệu Tập Cẩm Bình có bắt chước Putin?
http://www.economist.com/news/asia/21672357-chinas-principle-non-interference-may-not-apply-when-ethnic-chinese-are-concerned-big-motherland
http://www.economist.com/news/asia/21672357-chinas-principle-non-interference-may-not-apply-when-ethnic-chinese-are-concerned-big-motherland
Hai ngày liên tiếp Viet-studies link hai bài báo của hai học giả thân TQ về vấn đề Biển Đông.
Hai ngày liên tiếp Viet-studies link hai bài báo của hai học giả thân TQ về vấn đề Biển Đông. Bài hôm nay GS Trần Hữu Dũng nói thẳng Mark Valencia bênh TQ, bài hôm qua của Greg Austin khó nhận thấy hơn.
Trong lúc TQ tuyên bố sẽ không sử dụng các đảo TS cho mục đích quân sự, điều mà trẻ con cũng biết là nói dối, thì Austin viết bài nói rằng thực ra ở Biển Đông đảo Hải Nam mới có giá trị quân sự quan trọng nhất mà TQ đã làm chủ đảo này từ lâu. Tất nhiên Austin ngụ ý rằng TQ chẳng cần phải biến các đảo ở TS (và HS) mà họ đang chiếm đóng thành các tiền đồn quân sự.
Bài báo này cũng là một dạng "cảnh báo" ngầm các nước đang tranh chấp trong khu vực (và có thể cả Mỹ): đừng hi vọng chiếm đóng một vài hòn đảo ở TS hay HS mà có thể thay đổi được cán cân quân sự trên Biển Đông vì TQ đã có Hải Nam.
http://thediplomat.com/2015/10/which-south-china-sea-island-holds-the-greatest-military-significance/
http://thediplomat.com/2015/10/which-south-china-sea-island-holds-the-greatest-military-significance
Trong lúc TQ tuyên bố sẽ không sử dụng các đảo TS cho mục đích quân sự, điều mà trẻ con cũng biết là nói dối, thì Austin viết bài nói rằng thực ra ở Biển Đông đảo Hải Nam mới có giá trị quân sự quan trọng nhất mà TQ đã làm chủ đảo này từ lâu. Tất nhiên Austin ngụ ý rằng TQ chẳng cần phải biến các đảo ở TS (và HS) mà họ đang chiếm đóng thành các tiền đồn quân sự.
Bài báo này cũng là một dạng "cảnh báo" ngầm các nước đang tranh chấp trong khu vực (và có thể cả Mỹ): đừng hi vọng chiếm đóng một vài hòn đảo ở TS hay HS mà có thể thay đổi được cán cân quân sự trên Biển Đông vì TQ đã có Hải Nam.
http://thediplomat.com/2015/10/which-south-china-sea-island-holds-the-greatest-military-significance/
http://thediplomat.com/2015/10/which-south-china-sea-island-holds-the-greatest-military-significance
[Có bạn cho biết không vào được blog của tôi, không rõ blogspot bị firewall hay trục trặc gì.
[Có bạn cho biết không vào được blog của tôi, không rõ blogspot bị firewall hay trục trặc gì. Tôi copy lại text bài viết vào đây để các bạn tiện đọc, tuy nhiên các link trong bài không còn, ai muốn đọc các link thì phải vào bài trên blog.]
AIDS
AIDS ở đây không phải là "căn bệnh thế kỷ" mà là Almost Ideal Demand System, một hệ phương trình biểu diễn những hàm demand các loại hàng hoá khác nhau trong một nền kinh tế. Đây là một công trình của Angus Deaton, nhà kinh tế vừa được trao giải Nobel, (viết cùng John Muellbauer) công bố năm 1980. Bài báo này được đăng trên tạp chí American Economic Review, một trong những tạp chí uy tín nhất trong ngành kinh tế học, và được chính AER chọn là một trong 20 bài báo quan trọng nhất trong lịch sử 100 năm của họ. Bài viết này sẽ giới thiệu sơ lược công trình của Deaton trong tổng thể lý thuyết về demand system, về cơ bản là tóm tắt một bài literature review tôi viết năm 2003 khi đang là sinh viên (bạn có thể đọc tài liệu embedded bên dưới hoặc download pdf về đọc). Đây không phải lĩnh vực của tôi, lúc đó tôi viết bài này vì đang làm research assistant cho 2 giáo sư trong trường. Bởi vậy dù đã tìm hiểu khá kỹ nhưng bài review vẫn có thể có những sai sót, bạn nào quan tâm nên tìm đọc các bài báo gốc trong reference list.
Trước hết cần nhắc lại cung và cầu là hai khái niệm căn bản của kinh tế học có từ thời Adam Smith. Sau cuộc Cách mạng Cận biên (Marginal Revolution) vào cuối thế kỷ 19, các nhà kinh tế học bắt đầu xây dựng lý thuyết cung cầu dựa vào các mô hình toán. Cụ thể, hàm cầu là kết quả của bài toán tối ưu utility của người tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào dạng hàm utility chúng ta có thể giải bài toán này để tìm ra hàm cầu và ước lượng các tham số của nó dựa vào số liệu quan sát được. Lưu ý utility là một khái niệm trừu tượng do các nhà kinh tế đưa ra để xây dựng lý thuyết. Không ai đo lường được giá trị utility trên thực tế nên muốn kiểm chứng lý thuyết phải đi vòng qua "reduced form" của lý thuyết đó mà trong trường hợp này là demand function.
Điểm thứ hai cần nhắc lại là demand function có thể xem xét/ước lượng trong hai trường hợp: partial và general equilibrium. Ở trường hợp thứ nhất chúng ta chỉ cần xét riêng rẽ một thị trường nhất định và xác định quan hệ giữa giá (P) và số lượng (Q) của một loại hàng hoá. Hầu hết các nghiên cứu về hàm cầu theo hướng này (trong các ngành business, marketing) không đặt nặng vấn đề hàm cầu phải là hệ quả của utility maximisation. Trường hợp thứ hai hàm cầu của một loại hàng hoá (i) phụ thuộc không chỉ vào giá P(i) của loại hàng hoá đó mà còn phụ thuộc vào giá P(j) của các hàng hoá khác mà người tiêu dùng mua khi họ có một mức thu nhập I nhất định (budget constraint). Vì demand cho tất cả các loại hàng hoá phụ thuộc lẫn nhau nên các nhà kinh tế tìm cách xác định/ước lượng tất cả các hàm demand đồng thời trong một hệ phương trình, bởi vậy gọi là demand system.
Như đã đề cập bên trên, demand system là lời giải cho bài toán utility maximisation trong một general equilibrium nên nó sẽ có một số tính chất giới hạn (restriction) nhất định. Ví dụ tổng chi tiêu cho các loại hàng hoá phải bằng thu nhập (Walras law) hay nếu tất cả các loại giá và thu nhập cùng tăng với tỷ lệ như nhau thì cầu cho từng loại hàng hoá không đổi (homogenous degree of zero in all prices and income). Xây dựng một dạng hàm phù hợp với số liệu thực tế đồng thời đảm bảo các giới hạn này không hề đơn giản. Những dạng hàm sơ khai như LES, PIGL/PIGLOG, hay Rotterdam đáp ứng được phần nào nhưng có rất nhiều hạn chế. Cụ thể chúng chỉ phù hợp khi hàng hoá được phân loại thành những nhóm lớn, ví dụ nhà ở, lương thực, giải trí..., chứ khó ước lượng cho những phân loại chi tiết hơn.
Vào đầu những năm 1970s một hướng nghiên cứu demand system mới phát triển từ dạng hàm PIGLOG trước đó. Ý tưởng chính của hướng nghiên cứu này là thay vì xác định một dạng hàng utility rồi giải ra hàm demand, các nhà kinh tế đưa ra một dạng hàm demand trực tiếp rất flexible để có khả năng là lời giải của một hàm utility bất kỳ. Tất nhiên về mặt lý thuyết thì điều này không thể nhưng nếu chỉ cần gần đúng thì bất kỳ một dạng hàm nào cũng có thể triển khai thành một chuỗi Taylor. Sử dụng Taylor expansion bậc hai hai nhóm demand function được đề xuất là Translog và AIDS. Mặc dù Translog tổng quát hơn nhưng AIDS có nhiều ưu điểm vượt trội nên sau này đã phổ biến hơn và có nhiều biến thể. Một trong những ưu điểm quan trọng nhất là nó có thể giản lược thành một hệ tuyến tính (linear) rất dễ ước lượng (những năm 70-80 chưa có PC và những phần mềm econometrics mạnh như bây giờ).
Những dạng hàm flexible form như Translog và AIDS (và các extension của nó) giúp các nhà kinh tế kiểm chứng consumer theory (với utility maximisation) thông qua số liệu tiêu dùng của các hộ gia đình. Một số cải biến cho AIDS để đưa các đặc tính demography vào demand system có nhiều ứng dụng thực tế trong việc giúp hoạch định chính sách. Ví dụ ảnh hưởng của một sắc thuế hoặc một loại trợ giá vào welfare của các hộ gia đình (với các mức thu nhập khác nhau) như thế nào. Hay như hai giáo sư mà tôi làm assistant đã đánh giá tác động của sự thay đổi cấu trúc dân số TQ vào demand của các loại lương thực của nước này. Sau khi viết bài review tôi cũng có ý định sẽ lấy số liệu VHLSS của VN để thử ước lượng một demand system nhưng rồi bận với luận án và những vấn đề cuộc sống khác nên đành bỏ dở. Nhân Angus Deaton được giải Nobel chợt nhớ đến lĩnh vực này, một dạng nostalgic lại thời sinh viên. Thôi hi vọng bài giới thiệu này làm một/vài bạn sinh viên nào đó hứng thú và sẽ đi xa hơn tôi.
https://www.scribd.com/doc/284751494/Consumption-System-Review
https://www.scribd.com/doc/284751494/Consumption-System-Review
AIDS
AIDS ở đây không phải là "căn bệnh thế kỷ" mà là Almost Ideal Demand System, một hệ phương trình biểu diễn những hàm demand các loại hàng hoá khác nhau trong một nền kinh tế. Đây là một công trình của Angus Deaton, nhà kinh tế vừa được trao giải Nobel, (viết cùng John Muellbauer) công bố năm 1980. Bài báo này được đăng trên tạp chí American Economic Review, một trong những tạp chí uy tín nhất trong ngành kinh tế học, và được chính AER chọn là một trong 20 bài báo quan trọng nhất trong lịch sử 100 năm của họ. Bài viết này sẽ giới thiệu sơ lược công trình của Deaton trong tổng thể lý thuyết về demand system, về cơ bản là tóm tắt một bài literature review tôi viết năm 2003 khi đang là sinh viên (bạn có thể đọc tài liệu embedded bên dưới hoặc download pdf về đọc). Đây không phải lĩnh vực của tôi, lúc đó tôi viết bài này vì đang làm research assistant cho 2 giáo sư trong trường. Bởi vậy dù đã tìm hiểu khá kỹ nhưng bài review vẫn có thể có những sai sót, bạn nào quan tâm nên tìm đọc các bài báo gốc trong reference list.
Trước hết cần nhắc lại cung và cầu là hai khái niệm căn bản của kinh tế học có từ thời Adam Smith. Sau cuộc Cách mạng Cận biên (Marginal Revolution) vào cuối thế kỷ 19, các nhà kinh tế học bắt đầu xây dựng lý thuyết cung cầu dựa vào các mô hình toán. Cụ thể, hàm cầu là kết quả của bài toán tối ưu utility của người tiêu dùng. Tuỳ thuộc vào dạng hàm utility chúng ta có thể giải bài toán này để tìm ra hàm cầu và ước lượng các tham số của nó dựa vào số liệu quan sát được. Lưu ý utility là một khái niệm trừu tượng do các nhà kinh tế đưa ra để xây dựng lý thuyết. Không ai đo lường được giá trị utility trên thực tế nên muốn kiểm chứng lý thuyết phải đi vòng qua "reduced form" của lý thuyết đó mà trong trường hợp này là demand function.
Điểm thứ hai cần nhắc lại là demand function có thể xem xét/ước lượng trong hai trường hợp: partial và general equilibrium. Ở trường hợp thứ nhất chúng ta chỉ cần xét riêng rẽ một thị trường nhất định và xác định quan hệ giữa giá (P) và số lượng (Q) của một loại hàng hoá. Hầu hết các nghiên cứu về hàm cầu theo hướng này (trong các ngành business, marketing) không đặt nặng vấn đề hàm cầu phải là hệ quả của utility maximisation. Trường hợp thứ hai hàm cầu của một loại hàng hoá (i) phụ thuộc không chỉ vào giá P(i) của loại hàng hoá đó mà còn phụ thuộc vào giá P(j) của các hàng hoá khác mà người tiêu dùng mua khi họ có một mức thu nhập I nhất định (budget constraint). Vì demand cho tất cả các loại hàng hoá phụ thuộc lẫn nhau nên các nhà kinh tế tìm cách xác định/ước lượng tất cả các hàm demand đồng thời trong một hệ phương trình, bởi vậy gọi là demand system.
Như đã đề cập bên trên, demand system là lời giải cho bài toán utility maximisation trong một general equilibrium nên nó sẽ có một số tính chất giới hạn (restriction) nhất định. Ví dụ tổng chi tiêu cho các loại hàng hoá phải bằng thu nhập (Walras law) hay nếu tất cả các loại giá và thu nhập cùng tăng với tỷ lệ như nhau thì cầu cho từng loại hàng hoá không đổi (homogenous degree of zero in all prices and income). Xây dựng một dạng hàm phù hợp với số liệu thực tế đồng thời đảm bảo các giới hạn này không hề đơn giản. Những dạng hàm sơ khai như LES, PIGL/PIGLOG, hay Rotterdam đáp ứng được phần nào nhưng có rất nhiều hạn chế. Cụ thể chúng chỉ phù hợp khi hàng hoá được phân loại thành những nhóm lớn, ví dụ nhà ở, lương thực, giải trí..., chứ khó ước lượng cho những phân loại chi tiết hơn.
Vào đầu những năm 1970s một hướng nghiên cứu demand system mới phát triển từ dạng hàm PIGLOG trước đó. Ý tưởng chính của hướng nghiên cứu này là thay vì xác định một dạng hàng utility rồi giải ra hàm demand, các nhà kinh tế đưa ra một dạng hàm demand trực tiếp rất flexible để có khả năng là lời giải của một hàm utility bất kỳ. Tất nhiên về mặt lý thuyết thì điều này không thể nhưng nếu chỉ cần gần đúng thì bất kỳ một dạng hàm nào cũng có thể triển khai thành một chuỗi Taylor. Sử dụng Taylor expansion bậc hai hai nhóm demand function được đề xuất là Translog và AIDS. Mặc dù Translog tổng quát hơn nhưng AIDS có nhiều ưu điểm vượt trội nên sau này đã phổ biến hơn và có nhiều biến thể. Một trong những ưu điểm quan trọng nhất là nó có thể giản lược thành một hệ tuyến tính (linear) rất dễ ước lượng (những năm 70-80 chưa có PC và những phần mềm econometrics mạnh như bây giờ).
Những dạng hàm flexible form như Translog và AIDS (và các extension của nó) giúp các nhà kinh tế kiểm chứng consumer theory (với utility maximisation) thông qua số liệu tiêu dùng của các hộ gia đình. Một số cải biến cho AIDS để đưa các đặc tính demography vào demand system có nhiều ứng dụng thực tế trong việc giúp hoạch định chính sách. Ví dụ ảnh hưởng của một sắc thuế hoặc một loại trợ giá vào welfare của các hộ gia đình (với các mức thu nhập khác nhau) như thế nào. Hay như hai giáo sư mà tôi làm assistant đã đánh giá tác động của sự thay đổi cấu trúc dân số TQ vào demand của các loại lương thực của nước này. Sau khi viết bài review tôi cũng có ý định sẽ lấy số liệu VHLSS của VN để thử ước lượng một demand system nhưng rồi bận với luận án và những vấn đề cuộc sống khác nên đành bỏ dở. Nhân Angus Deaton được giải Nobel chợt nhớ đến lĩnh vực này, một dạng nostalgic lại thời sinh viên. Thôi hi vọng bài giới thiệu này làm một/vài bạn sinh viên nào đó hứng thú và sẽ đi xa hơn tôi.
https://www.scribd.com/doc/284751494/Consumption-System-Review
https://www.scribd.com/doc/284751494/Consumption-System-Review
Như đã hứa, mời các bạn tham khảo ... AIDS.
Như đã hứa, mời các bạn tham khảo ... AIDS.
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2015/10/aids.html
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2015/10/aids.html
Tuesday, October 13, 2015
Monday, October 12, 2015
Quyết định trao giải Nobel kinh tế năm nay cho Angus Deaton được nhiều người khen ngợi.
Quyết định trao giải Nobel kinh tế năm nay cho Angus Deaton được nhiều người khen ngợi. Deaton không được giới báo chí và dân ngoại đạo biết đến nhiều, bản thân ông cũng không có nhiều công trình lý thuyết đỉnh cao. Đóng góp lớn nhất của ông là về số liệu kinh tế (household survey) và những phương pháp phân tích chúng.
Angus Deaton là một cầu nối quan trọng giữa microeconomics truyền thống với development economics mà cụ thể là anti-poverty policy. Vì đây không phải lĩnh vực của tôi nên tôi phải xin lỗi các bạn nhà báo trước là sẽ không nhận viết bài về giải Nobel năm nay được. Nhưng tôi sẽ viết một bài (rất technical/wonkish) về một công trình của Deaton mà tôi đã tìm hiểu khi còn là sinh viên, chủ yếu dành cho các bạn đang học kinh tế.
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2015/10/nobel-prize-winner-is-angus-deaton.html
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2015/10/nobel-prize-winner-is-angus-deaton.html
Angus Deaton là một cầu nối quan trọng giữa microeconomics truyền thống với development economics mà cụ thể là anti-poverty policy. Vì đây không phải lĩnh vực của tôi nên tôi phải xin lỗi các bạn nhà báo trước là sẽ không nhận viết bài về giải Nobel năm nay được. Nhưng tôi sẽ viết một bài (rất technical/wonkish) về một công trình của Deaton mà tôi đã tìm hiểu khi còn là sinh viên, chủ yếu dành cho các bạn đang học kinh tế.
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2015/10/nobel-prize-winner-is-angus-deaton.html
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2015/10/nobel-prize-winner-is-angus-deaton.html
Sunday, October 11, 2015
Lại nói thêm về dịch thuật nữa nhé :-) Cái tựa bài của VNEx:
Lại nói thêm về dịch thuật nữa nhé :-) Cái tựa bài của VNEx:
"Đề xuất phát hành 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế để tái cơ cấu nợ công."
mà được các bạn Bloomberg hay Reuters dịch thành:
"Vietnam to issue 3 billion dollar denominated bonds to restructure its public debts"
thì khối độc giả ngoại quốc nghĩ VN sắp vỡ nợ giống Hy Lạp.
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/de-xuat-phat-hanh-3-ty-usd-trai-phieu-quoc-te-de-tai-co-cau-no-cong-3294379.html
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/de-xuat-phat-hanh-3-ty-usd-trai-phieu-quoc-te-de-tai-co-cau-no-cong-3294379.html
"Đề xuất phát hành 3 tỷ USD trái phiếu quốc tế để tái cơ cấu nợ công."
mà được các bạn Bloomberg hay Reuters dịch thành:
"Vietnam to issue 3 billion dollar denominated bonds to restructure its public debts"
thì khối độc giả ngoại quốc nghĩ VN sắp vỡ nợ giống Hy Lạp.
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/de-xuat-phat-hanh-3-ty-usd-trai-phieu-quoc-te-de-tai-co-cau-no-cong-3294379.html
http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/de-xuat-phat-hanh-3-ty-usd-trai-phieu-quoc-te-de-tai-co-cau-no-cong-3294379.html
Thêm một cách dịch từ tiếng Anh nữa, học của bạn Phạm Vũ Lửa Hạ:
Thêm một cách dịch từ tiếng Anh nữa, học của bạn Phạm Vũ Lửa Hạ:
Mainstream = Chủ lưu (thay vì dòng chính)
PS. Ở Úc cũng có đảng Cộng sản nhưng hầu như không có ảnh hưởng gì, kém xa 2 đảng của Canada mà bạn PVLH giới thiệu.
https://phamvuluaha.wordpress.com/2015/10/10/canada-communists/
https://phamvuluaha.wordpress.com/2015/10/10/canada-communists
Mainstream = Chủ lưu (thay vì dòng chính)
PS. Ở Úc cũng có đảng Cộng sản nhưng hầu như không có ảnh hưởng gì, kém xa 2 đảng của Canada mà bạn PVLH giới thiệu.
https://phamvuluaha.wordpress.com/2015/10/10/canada-communists/
https://phamvuluaha.wordpress.com/2015/10/10/canada-communists
Đọc hai bài của chị Hải Lý trên SGT chưa có thời gian comment, nhưng có 2 từ rất mong mọi người sửa:
Đọc hai bài của chị Hải Lý trên SGT chưa có thời gian comment, nhưng có 2 từ rất mong mọi người sửa:
Commodity = Thương phẩm (thay vì hàng hóa)
Coupon = Trái tức (thay vì lãi suất)
Tôi đã viết về 2 từ này và cổ súy cho các dịch thương phẩm + trái tức, vừa tránh nhầm lẫn vừa chính xác với bản chất của từ tiếng Anh hơn. Có thể mọi người chưa quen nhưng cứ sử dụng một thời gian sẽ thành bình thường.
http://www.thesaigontimes.vn/136718/Noi-niem-trai-phieu.html
http://www.thesaigontimes.vn/136700/Thi-truong-lai-suat-dang-co-van-de.html
http://www.thesaigontimes.vn/136700/Thi-truong-lai-suat-dang-co-van-de.html
Commodity = Thương phẩm (thay vì hàng hóa)
Coupon = Trái tức (thay vì lãi suất)
Tôi đã viết về 2 từ này và cổ súy cho các dịch thương phẩm + trái tức, vừa tránh nhầm lẫn vừa chính xác với bản chất của từ tiếng Anh hơn. Có thể mọi người chưa quen nhưng cứ sử dụng một thời gian sẽ thành bình thường.
http://www.thesaigontimes.vn/136718/Noi-niem-trai-phieu.html
http://www.thesaigontimes.vn/136700/Thi-truong-lai-suat-dang-co-van-de.html
http://www.thesaigontimes.vn/136700/Thi-truong-lai-suat-dang-co-van-de.html
Friday, October 9, 2015
Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi nhà nước phát hành tiền sẽ thu được một khoản lợi nhuận gọi là seigniorage (từ này đã...
Nhiều nhà kinh tế cho rằng khi nhà nước phát hành tiền sẽ thu được một khoản lợi nhuận gọi là seigniorage (từ này đã có ai dịch ra tiếng Việt chưa nhỉ?). Tuy nhiên theo một nhà nghiên cứu lịch sử kinh tế điều này nhiều khả năng không đúng ở hai thành phố Hy Lạp cổ, chính quyền ở đó rất có khả năng phải chấp nhận lỗ khi đúc tiền vì phát hành tiền có những lợi ích chính trị chứ không hẳn chỉ là quyết định kinh tế.
http://www.voxeu.org/article/profitability-early-coinage
Quay về thế kỷ 21 việc TQ đang gắng sức đưa đồng RMB thành một đồng tiền dự trữ quốc tế (reserve currency) nhiều khả năng cũng là một quyết định chính trị. TQ có lẽ phải tốn kém rất nhiều để lobby các central banks, IMF, MNC... chấp nhận dự trữ RMB trong khi số seigniorage thu được không đáng kể. Để hiểu được những lý do chính trị này các bạn nên đọc một loạt bài special reports rất quan trọng của The Economist trong số tuần này:
http://www.economist.com/news/special-report/21668717-america-centre-global-monetary-disorder-thrills-and-spills
[Thực ra loạt bài này rất cần thiết cho những nhà hoạch định chính sách/chiến lược dài hạn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế.]
http://www.voxeu.org/article/profitability-early-coinage
http://www.voxeu.org/article/profitability-early-coinage
Quay về thế kỷ 21 việc TQ đang gắng sức đưa đồng RMB thành một đồng tiền dự trữ quốc tế (reserve currency) nhiều khả năng cũng là một quyết định chính trị. TQ có lẽ phải tốn kém rất nhiều để lobby các central banks, IMF, MNC... chấp nhận dự trữ RMB trong khi số seigniorage thu được không đáng kể. Để hiểu được những lý do chính trị này các bạn nên đọc một loạt bài special reports rất quan trọng của The Economist trong số tuần này:
http://www.economist.com/news/special-report/21668717-america-centre-global-monetary-disorder-thrills-and-spills
[Thực ra loạt bài này rất cần thiết cho những nhà hoạch định chính sách/chiến lược dài hạn không chỉ trong lĩnh vực kinh tế.]
http://www.voxeu.org/article/profitability-early-coinage
Bloomberg - Fed Officials See 2015 Rate Rise Provided Economy Stays on Track http://bloom.bg/1JXUKjN
Bloomberg - Fed Officials See 2015 Rate Rise Provided Economy Stays on Track http://bloom.bg/1JXUKjN
http://bloom.bg/1JXUKjN
http://bloom.bg/1JXUKjN
Wednesday, October 7, 2015
Paul Krugman trích dẫn một nhận xét của Grossman & Helpman về các FTA, đại ý là thường các FTA "hợp nhãn" với các...
Paul Krugman trích dẫn một nhận xét của Grossman & Helpman về các FTA, đại ý là thường các FTA "hợp nhãn" với các chính trị gia thì sẽ có hại cho xã hội. Theo chiều ngược lại, Krugman chuyển từ chống sang ủng hộ TPP vì rất nhiều chính trị gia, từ Donald Trump đến Hillary Clinton, đang chống đối thỏa thuận này, đồng nghĩa với TPP sẽ có lợi cho người dân Mỹ.
Ở VN thì sao? Cho đến thời điểm này chưa thấy lãnh đạo cao cấp nào của VN có phát ngôn hồ hởi về TPP khác với đa số nguyên thủ các nước đã có tuyên bố chính thức hoặc trả lời phỏng vấn báo chí. Ngược lại báo chí và dư luận "hớn hở" ra mặt, không kém gì thời gia nhập WTO. Theo "định luật" Grossman & Helpman có thể kết luận TPP có lợi cho xã hội VN vì nó có lẽ không làm một vài lãnh đạo hài lòng.
Nhưng cũng cần nói thêm hiện tại báo chí và nhiều chuyên gia VN đang hồ hởi thái quá. TPP mới chỉ được thỏa thuận về mặt nguyên tắc/văn bản, để đưa nó vào hiện thực quốc hội của 12 nước thành viên phải phê chuẩn thành luật. Điều này khá đơn giản với VN và các nước nhỏ khác như Malaysia hay Chile, nhưng không hề đơn giản ở Mỹ, Canada hay thậm chí Nhật bản, Úc.
Nếu trong tháng 4/2016 TT Obama không "dụ" được quốc hội Mỹ thông qua TPP thì nhiều khả năng thỏa thuận này sẽ phải đối mặt với một quốc hội và tổng thống khác trong năm 2017, chắc chắn không "mặn mà" với TPP như Obama. Chưa cần đợi đến Mỹ, phép thử đầu tiên sẽ là cuộc bầu cử sắp tới ở Canada, nếu đương kim thủ tướng Stephen Harper không thắng thì tương lai TPP chưa biết sẽ về đâu.
Giả sử TPP không được thông qua suôn sẻ, VN sẽ làm gì? Trong số các development economists, có một số người cho rằng các nước đang phát triểm thậm chí vẫn có lợi khi đơn phương dỡ bỏ hoặc hạ các rào cản thương mại và đầu tư của mình. Nghĩa là thay vì bỏ theo cam kết trong các FTA để được hưởng lợi từ các thành viên khác, việc tự nguyện dỡ bỏ có khi vẫn đem lại "net benifit" cho quốc gia từ dòng vốn đầu tư nước ngoài và sự gia tăng cạnh tranh trong thị trường nội địa. Ngay cả chưa tính đến những điều đó, tự nguyện cải tổ hệ thống SOE để chúng cạnh tranh bình đẳng, tuân thủ các yêu cầu về lao động của ILO, các tiêu chuẩn về môi trường, an toàn thực phẩm là điều VN cần phải làm, có TPP hay không.
Sẽ rất thú vị theo dõi xem VN là thành viên thứ mấy được quốc hội phê chuẩn hiệp định này. Tôi nghĩ những người có tâm huyết trong chính phủ nên cố vận động để QH thông qua trước đại hội đảng sắp tới, mà thực ra là vận động Bộ Chính trị hiện tại, những người đã đồng ý cho đoàn đàm phán đặt bút ký. Một Bộ Chính trị mới sau đại hội đảng có thể sẽ có quan điểm khác.
http://krugman.blogs.nytimes.com/2015/10/06/tpp-take-two/
http://krugman.blogs.nytimes.com/2015/10/06/tpp-take-two
Ở VN thì sao? Cho đến thời điểm này chưa thấy lãnh đạo cao cấp nào của VN có phát ngôn hồ hởi về TPP khác với đa số nguyên thủ các nước đã có tuyên bố chính thức hoặc trả lời phỏng vấn báo chí. Ngược lại báo chí và dư luận "hớn hở" ra mặt, không kém gì thời gia nhập WTO. Theo "định luật" Grossman & Helpman có thể kết luận TPP có lợi cho xã hội VN vì nó có lẽ không làm một vài lãnh đạo hài lòng.
Nhưng cũng cần nói thêm hiện tại báo chí và nhiều chuyên gia VN đang hồ hởi thái quá. TPP mới chỉ được thỏa thuận về mặt nguyên tắc/văn bản, để đưa nó vào hiện thực quốc hội của 12 nước thành viên phải phê chuẩn thành luật. Điều này khá đơn giản với VN và các nước nhỏ khác như Malaysia hay Chile, nhưng không hề đơn giản ở Mỹ, Canada hay thậm chí Nhật bản, Úc.
Nếu trong tháng 4/2016 TT Obama không "dụ" được quốc hội Mỹ thông qua TPP thì nhiều khả năng thỏa thuận này sẽ phải đối mặt với một quốc hội và tổng thống khác trong năm 2017, chắc chắn không "mặn mà" với TPP như Obama. Chưa cần đợi đến Mỹ, phép thử đầu tiên sẽ là cuộc bầu cử sắp tới ở Canada, nếu đương kim thủ tướng Stephen Harper không thắng thì tương lai TPP chưa biết sẽ về đâu.
Giả sử TPP không được thông qua suôn sẻ, VN sẽ làm gì? Trong số các development economists, có một số người cho rằng các nước đang phát triểm thậm chí vẫn có lợi khi đơn phương dỡ bỏ hoặc hạ các rào cản thương mại và đầu tư của mình. Nghĩa là thay vì bỏ theo cam kết trong các FTA để được hưởng lợi từ các thành viên khác, việc tự nguyện dỡ bỏ có khi vẫn đem lại "net benifit" cho quốc gia từ dòng vốn đầu tư nước ngoài và sự gia tăng cạnh tranh trong thị trường nội địa. Ngay cả chưa tính đến những điều đó, tự nguyện cải tổ hệ thống SOE để chúng cạnh tranh bình đẳng, tuân thủ các yêu cầu về lao động của ILO, các tiêu chuẩn về môi trường, an toàn thực phẩm là điều VN cần phải làm, có TPP hay không.
Sẽ rất thú vị theo dõi xem VN là thành viên thứ mấy được quốc hội phê chuẩn hiệp định này. Tôi nghĩ những người có tâm huyết trong chính phủ nên cố vận động để QH thông qua trước đại hội đảng sắp tới, mà thực ra là vận động Bộ Chính trị hiện tại, những người đã đồng ý cho đoàn đàm phán đặt bút ký. Một Bộ Chính trị mới sau đại hội đảng có thể sẽ có quan điểm khác.
http://krugman.blogs.nytimes.com/2015/10/06/tpp-take-two/
http://krugman.blogs.nytimes.com/2015/10/06/tpp-take-two
Tuesday, October 6, 2015
Chắc hẳn bạn đã biết tạp chí Forbes hàng năm công bố danh sách các tỷ phú giầu nhất thế giới.
Chắc hẳn bạn đã biết tạp chí Forbes hàng năm công bố danh sách các tỷ phú giầu nhất thế giới. Nhưng có thể bạn chưa biết tạp chí này còn có một danh sách tỷ phú rất thú vị, The Forbes Fictional 15, bao gồm 15 nhân vật giầu nhất thế giới trong các tác phẩm fiction (truyện, phim, hoạt hình...). Danh sách này không tính các nhân vật thần thoại, cổ tích và chỉ bao gồm những nhân vật được mô tả cẩn thận (trong story line) và có tài sản xác định được.
Danh sách The Forbes Fictional 15 cuối cùng công bố năm 2013, trong đó giầu nhất thế giới fiction là nhân vật Scrooge McDuck trong bộ phim hoạt hình Donald Duck có tài sản 65.4 tỷ USD. Tỷ phú giàu nhất năm đó ngoài đời thật là Carlos Slim có tổng tài sản trị giá 73 tỷ. Năm 2012 Forrest Gump đã lọt vào danh sách này, đứng thứ 9 với tái sản 5.7 tỷ nhờ đầu tư vào Apple ngay khi công ty này IPO. Tuy nhiên năm 2013 Gump bị rớt khỏi list.
Một nhân vật rất thú vị đạt đủ điều kiện đưa vào The Forbes Fictional 15 và sẽ đứng đầu danh sách này nhưng Forbes quyết định loại ra vì:
"We still estimate Claus's net worth as infinite, but we excluded him from this year's rankings after being bombarded by letters from outraged children insisting that Claus is real. We don't claim to have settled the ongoing controversy concerning Claus's existence, but after taking into account the physical evidence—toys delivered, milk and cookies devoured—we felt it was safer to remove him from consideration."
http://www.forbes.com/special-report/2012/fictional-15-12/forrest-gump.html
http://www.forbes.com/special-report/2012/fictional-15-12/forrest-gump.html
Danh sách The Forbes Fictional 15 cuối cùng công bố năm 2013, trong đó giầu nhất thế giới fiction là nhân vật Scrooge McDuck trong bộ phim hoạt hình Donald Duck có tài sản 65.4 tỷ USD. Tỷ phú giàu nhất năm đó ngoài đời thật là Carlos Slim có tổng tài sản trị giá 73 tỷ. Năm 2012 Forrest Gump đã lọt vào danh sách này, đứng thứ 9 với tái sản 5.7 tỷ nhờ đầu tư vào Apple ngay khi công ty này IPO. Tuy nhiên năm 2013 Gump bị rớt khỏi list.
Một nhân vật rất thú vị đạt đủ điều kiện đưa vào The Forbes Fictional 15 và sẽ đứng đầu danh sách này nhưng Forbes quyết định loại ra vì:
"We still estimate Claus's net worth as infinite, but we excluded him from this year's rankings after being bombarded by letters from outraged children insisting that Claus is real. We don't claim to have settled the ongoing controversy concerning Claus's existence, but after taking into account the physical evidence—toys delivered, milk and cookies devoured—we felt it was safer to remove him from consideration."
http://www.forbes.com/special-report/2012/fictional-15-12/forrest-gump.html
http://www.forbes.com/special-report/2012/fictional-15-12/forrest-gump.html
Trước hết tôi xin lỗi đã đưa ra một số thông tin không chính xác trong entry trước.
Trước hết tôi xin lỗi đã đưa ra một số thông tin không chính xác trong entry trước. Tôi đã lấy thủy điện và gas turbine làm ví dụ các loại nhà máy chạy base load trong một hệ thống điện, điều này không đúng trong một lưới điện quốc gia hiện đại. Một số bạn, chắc chắn có chuyên môn hơn tôi về hệ thống điện, cho biết base load thường do nhiệt điện chạy than hoặc điện hạt nhân đảm trách, còn peak load do gas turbine (open cycle) và thủy điện cung cấp. Gần đây năng lượng tái tạo (điện gió, điện mặt trời...) phát triển làm tình hình phức tạp hơn, những nhà máy điện base load truyền thống phải thu hẹp nhường chỗ cho những loại năng lượng mới.
Dẫu sao các hệ thống điện quốc gia vẫn chưa giải quyết được 2 vấn đề trọng yếu là peak load thường cao hơn rất nhiều base load và điện năng không/chưa dự trữ được (ở mức độ xóa bỏ được chênh lệch peak/off-peak). Bởi vậy hệ thống điện luôn phải có một lượng công suất phát dự phòng chỉ đưa vào hoạt động trong thời gian peak load. Điều này sẽ đẩy chi phí phát điện trung bình cao lên vì hiệu quả sử dụng những nhà máy chạy peak load rất thấp.
Tất nhiên một thị trường điện phát triển sẽ có nhiều hình thức hợp đồng để giảm thiểu rủi ro cho các bên tham gia và cân bằng lợi nhuận cho các nhà đầu tư dù vào peak hay base load. Tuy nhiên tổng thể xã hội vẫn bị thiệt hại cho đến khi nào chênh lệch peak-base không còn đáng kể. Song song với việc nghiên cứu các công nghệ dự trữ điện năng, một giải pháp đang được nhiều quốc gia triển khai là áp dụng giá điện khác nhau tùy theo giờ sử dụng của end-users.
Về mặt microeconomics, hình thức giá này (giá cao trong thời gian peak load, giá thấp cho base load) gián tiếp phân chia hệ thống điện thành hai phân mạng có average cost khác nhau (hệ thống giá trước đây tính average cost chung cho cả peak lẫn base load). Thay vì dùng price discrimination như trong hệ thống giá bậc thang, hệ thống này tập trung vào cost differentiation. Điều này cho phép xác định giá cho hai phân mạng độc lập với nhau tùy thuộc vào công nghệ và demand của từng phân mạng, vd giá cho base load giảm dần trong khi peak load tăng dần.
Về khía cạnh macro, khi giá peak load tăng cao nhu cầu điện cho những thời điểm này sẽ giảm (so với trước đây) nên qui hoạch hệ thống điện quốc gia sẽ không cần nhiều công suất dự trữ như trước, nghĩa là hiệu quả của hệ thống điện cho toàn xã hội tăng lên. Nếu hệ thống điện cạnh tranh, hoặc được regulated đúng cách, gia tăng hiệu quả của phía cung sẽ dẫn đến giá điện giảm cho người tiêu dùng. Economic resources đáng ra phải sử dụng cho spare capacity sẽ được dùng cho việc khác có ích hơn.
Đã có một số nghiên cứu cho thấy hiệu quả kinh tế của hệ thống hai giá điện phụ thuộc vào thời gian sử dụng trong ngày (peak vs off-peak) khá lớn, kể cả đã trừ đi chi phí thay đồng hồ điện cho end-users. Con số cụ thể cho VN phải có nghiên cứu thấu đáo, ngay cả xác định mức chênh lệch giá thế nào cho tối ưu cũng cần có khảo sát chi tiết nhu cầu và công nghệ sử dụng điện của end-users. Những việc này, và cả quá trình thay đồng hồ điện khá tốn kém, nên được giao cho các công ty bán lẻ thực hiện trong một môi trường cạnh tranh. Thị trường luôn là một cơ chế giải bài toán phân bổ resources hiệu quả nhất, trong đa số trường hợp.
Tóm lại khuyến nghị của tôi về cơ chế giá điện cho VN là nên hướng tới mô hình 2 giá tách biệt cho peak vs off-peak thay vì giá bậc thang. Nên sớm hình thành thị trường các công ty tư nhân bán lẻ điện cho người tiêu dùng. Để những công ty đó tự định giá trong một môi trường cạnh tranh. Đừng ngại một số kinh nghiệm của California (Mỹ) hay Victoria (Úc) giá bán lẻ tăng lên (trong ngắn hạn) sau khi tự do hóa thị trường. Lợi ích lâu dài cho xã hội là một hệ thống điện hiệu quả hơn và một nền kinh thị trường không cần "định hướng XHCN" thông qua những SOE lớn như EVN.
Dẫu sao các hệ thống điện quốc gia vẫn chưa giải quyết được 2 vấn đề trọng yếu là peak load thường cao hơn rất nhiều base load và điện năng không/chưa dự trữ được (ở mức độ xóa bỏ được chênh lệch peak/off-peak). Bởi vậy hệ thống điện luôn phải có một lượng công suất phát dự phòng chỉ đưa vào hoạt động trong thời gian peak load. Điều này sẽ đẩy chi phí phát điện trung bình cao lên vì hiệu quả sử dụng những nhà máy chạy peak load rất thấp.
Tất nhiên một thị trường điện phát triển sẽ có nhiều hình thức hợp đồng để giảm thiểu rủi ro cho các bên tham gia và cân bằng lợi nhuận cho các nhà đầu tư dù vào peak hay base load. Tuy nhiên tổng thể xã hội vẫn bị thiệt hại cho đến khi nào chênh lệch peak-base không còn đáng kể. Song song với việc nghiên cứu các công nghệ dự trữ điện năng, một giải pháp đang được nhiều quốc gia triển khai là áp dụng giá điện khác nhau tùy theo giờ sử dụng của end-users.
Về mặt microeconomics, hình thức giá này (giá cao trong thời gian peak load, giá thấp cho base load) gián tiếp phân chia hệ thống điện thành hai phân mạng có average cost khác nhau (hệ thống giá trước đây tính average cost chung cho cả peak lẫn base load). Thay vì dùng price discrimination như trong hệ thống giá bậc thang, hệ thống này tập trung vào cost differentiation. Điều này cho phép xác định giá cho hai phân mạng độc lập với nhau tùy thuộc vào công nghệ và demand của từng phân mạng, vd giá cho base load giảm dần trong khi peak load tăng dần.
Về khía cạnh macro, khi giá peak load tăng cao nhu cầu điện cho những thời điểm này sẽ giảm (so với trước đây) nên qui hoạch hệ thống điện quốc gia sẽ không cần nhiều công suất dự trữ như trước, nghĩa là hiệu quả của hệ thống điện cho toàn xã hội tăng lên. Nếu hệ thống điện cạnh tranh, hoặc được regulated đúng cách, gia tăng hiệu quả của phía cung sẽ dẫn đến giá điện giảm cho người tiêu dùng. Economic resources đáng ra phải sử dụng cho spare capacity sẽ được dùng cho việc khác có ích hơn.
Đã có một số nghiên cứu cho thấy hiệu quả kinh tế của hệ thống hai giá điện phụ thuộc vào thời gian sử dụng trong ngày (peak vs off-peak) khá lớn, kể cả đã trừ đi chi phí thay đồng hồ điện cho end-users. Con số cụ thể cho VN phải có nghiên cứu thấu đáo, ngay cả xác định mức chênh lệch giá thế nào cho tối ưu cũng cần có khảo sát chi tiết nhu cầu và công nghệ sử dụng điện của end-users. Những việc này, và cả quá trình thay đồng hồ điện khá tốn kém, nên được giao cho các công ty bán lẻ thực hiện trong một môi trường cạnh tranh. Thị trường luôn là một cơ chế giải bài toán phân bổ resources hiệu quả nhất, trong đa số trường hợp.
Tóm lại khuyến nghị của tôi về cơ chế giá điện cho VN là nên hướng tới mô hình 2 giá tách biệt cho peak vs off-peak thay vì giá bậc thang. Nên sớm hình thành thị trường các công ty tư nhân bán lẻ điện cho người tiêu dùng. Để những công ty đó tự định giá trong một môi trường cạnh tranh. Đừng ngại một số kinh nghiệm của California (Mỹ) hay Victoria (Úc) giá bán lẻ tăng lên (trong ngắn hạn) sau khi tự do hóa thị trường. Lợi ích lâu dài cho xã hội là một hệ thống điện hiệu quả hơn và một nền kinh thị trường không cần "định hướng XHCN" thông qua những SOE lớn như EVN.
Friday, October 2, 2015
Trước khi quay lại vấn đề giá điện cần phải nhắc lại hai đặc thù rất quan trọng của thị trường điện.
Trước khi quay lại vấn đề giá điện cần phải nhắc lại hai đặc thù rất quan trọng của thị trường điện. Thứ nhất là điện năng không/chưa lưu trữ được nên sản xuất ra bao nhiêu phải tiêu thụ bấy nhiêu, hoặc ngược lại nhu cầu tiêu thụ bao nhiêu thì các nhà máy phát điện sẽ phát ra từng đó. Thứ hai là nhu cầu điện trong một ngày thay đổi rất lớn, vào những giờ cao điểm nhu cầu điện có thể cao gấp vài lần thời gian khác trong ngày. Sự thay đổi này còn phụ thuộc vào thời tiết và mùa vụ trong năm.
Vì hai đặc tính nói trên bất cứ hệ thống điện của quốc gia nào cũng phải có một số nhà máy phát "base load" và một số nhà máy khác phát "peak load". Thông thường base load, phần điện năng phát liên tục 24/24, do các nhà máy có operating cost rẻ (vd thuỷ điện, turbine khí) đảm trách, còn peak load do những nhà máy có khả năng tắt bật máy phát rất nhanh nhưng có chi phí cao hơn (vd nhiệt điện chạy diesel) phát. Hoặc trong trường hợp lưới điện quốc gia được nối với lưới điện các nước láng giềng thì có thể nhập điện tạm thời về để thoả mãn nhu cầu điện khi các nhà máy trong nước không đủ công suất phát peak load tăng đột biến(1). Ở những nước có thị trường bản sỉ điện, giá tính theo Mwh ở thời điểm peak load có thể gấp hàng chục thậm chí hàng trăm lần giá điện base load(2).
[(1): Cách đây mấy năm có lần PVN "tố cáo" EVN không chịu mua điện phát từ nhà máy điện Cà mau của mình mà lại nhập điện từ TQ với giá cao hơn. Tôi không biết nội tình vụ đó thế nào nhưng có thể có một lập luận "bênh" EVN như sau. Giá điện phát bằng turbine khí của PVN rẻ hơn nhưng EVN chỉ có thể mua với giá cho base load vì các nhà máy turbine phải chạy liên tục, không stop-start nhanh được cho nhu cầu peak load. Nếu giá PVN chào cao hơn giá của các nhà máy thuỷ điện thì có thể EVN sẽ ưu tiên mua base load từ các nhà máy thuỷ điện trước, còn thiếu bao nhiêu mới đặt mua từ PVN. Trong khi đó giá nhập từ TQ chắc chắn cho peak load nên phải cao hơn là điều có thể hiểu được.
(2) Vì giá peak load có thể tăng vọt cả trăm lần như vậy ở Úc có những "nhà máy điện" cực nhỏ (vài/vài chục Mw) do tư nhân đầu tư chỉ để phát điện vào những thời điểm nhu cầu tăng đột biến. Tôi biết có một farmer thậm chí đã mua mấy cái động cơ máy bay cũ về hoán cải thành máy phát điện để chạy bán điện peak load. Ngược lại những nhà máy thiết kế để chạy base load (rất khó dừng máy phát) phải chấp nhận bán giá thấp để có thể bán ra ổn định. Trong một vài trường hợp đột xuất khi nhu cầu thị trường tụt xuống quá thấp những nhà máy chạy base load (hoặc công ty bán sỉ đã ký hợp đồng bao tiêu) thậm chí có thể phải chấp nhận bán điện với giá âm, nghĩa là trả tiền cho người mua vì như vậy vẫn còn rẻ hơn phải dừng máy phát. Thị trường cạnh tranh tự do là vậy.]
Vì hai đặc tính nói trên bất cứ hệ thống điện của quốc gia nào cũng phải có một số nhà máy phát "base load" và một số nhà máy khác phát "peak load". Thông thường base load, phần điện năng phát liên tục 24/24, do các nhà máy có operating cost rẻ (vd thuỷ điện, turbine khí) đảm trách, còn peak load do những nhà máy có khả năng tắt bật máy phát rất nhanh nhưng có chi phí cao hơn (vd nhiệt điện chạy diesel) phát. Hoặc trong trường hợp lưới điện quốc gia được nối với lưới điện các nước láng giềng thì có thể nhập điện tạm thời về để thoả mãn nhu cầu điện khi các nhà máy trong nước không đủ công suất phát peak load tăng đột biến(1). Ở những nước có thị trường bản sỉ điện, giá tính theo Mwh ở thời điểm peak load có thể gấp hàng chục thậm chí hàng trăm lần giá điện base load(2).
[(1): Cách đây mấy năm có lần PVN "tố cáo" EVN không chịu mua điện phát từ nhà máy điện Cà mau của mình mà lại nhập điện từ TQ với giá cao hơn. Tôi không biết nội tình vụ đó thế nào nhưng có thể có một lập luận "bênh" EVN như sau. Giá điện phát bằng turbine khí của PVN rẻ hơn nhưng EVN chỉ có thể mua với giá cho base load vì các nhà máy turbine phải chạy liên tục, không stop-start nhanh được cho nhu cầu peak load. Nếu giá PVN chào cao hơn giá của các nhà máy thuỷ điện thì có thể EVN sẽ ưu tiên mua base load từ các nhà máy thuỷ điện trước, còn thiếu bao nhiêu mới đặt mua từ PVN. Trong khi đó giá nhập từ TQ chắc chắn cho peak load nên phải cao hơn là điều có thể hiểu được.
(2) Vì giá peak load có thể tăng vọt cả trăm lần như vậy ở Úc có những "nhà máy điện" cực nhỏ (vài/vài chục Mw) do tư nhân đầu tư chỉ để phát điện vào những thời điểm nhu cầu tăng đột biến. Tôi biết có một farmer thậm chí đã mua mấy cái động cơ máy bay cũ về hoán cải thành máy phát điện để chạy bán điện peak load. Ngược lại những nhà máy thiết kế để chạy base load (rất khó dừng máy phát) phải chấp nhận bán giá thấp để có thể bán ra ổn định. Trong một vài trường hợp đột xuất khi nhu cầu thị trường tụt xuống quá thấp những nhà máy chạy base load (hoặc công ty bán sỉ đã ký hợp đồng bao tiêu) thậm chí có thể phải chấp nhận bán điện với giá âm, nghĩa là trả tiền cho người mua vì như vậy vẫn còn rẻ hơn phải dừng máy phát. Thị trường cạnh tranh tự do là vậy.]
Bloomberg - The Federal Reserve Has Some Advice for Your Love Life http://bloom.bg/1JJsst9
Bloomberg - The Federal Reserve Has Some Advice for Your Love Life http://bloom.bg/1JJsst9
http://bloom.bg/1JJsst9
http://bloom.bg/1JJsst9
Đọc tin này mới biết hoá ra quốc hội Cambodia theo hình thức lưỡng viện: Thượng viện + Hạ viện.
Đọc tin này mới biết hoá ra quốc hội Cambodia theo hình thức lưỡng viện: Thượng viện + Hạ viện.
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151002/campuchia-xet-xu-thuong-nghi-si-tuyen-truyen-bay-ve-bien-gioi/978817.html
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151002/campuchia-xet-xu-thuong-nghi-si-tuyen-truyen-bay-ve-bien-gioi/978817.html
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151002/campuchia-xet-xu-thuong-nghi-si-tuyen-truyen-bay-ve-bien-gioi/978817.html
http://tuoitre.vn/tin/the-gioi/20151002/campuchia-xet-xu-thuong-nghi-si-tuyen-truyen-bay-ve-bien-gioi/978817.html
The Economist | Consumer lending: All credit to them...
The Economist | Consumer lending: All credit to them http://www.economist.com/news/finance-and-economics/21667917-cheaper-funding-not-enough-induce-banks-lend-more-all-credit-them?frsc=dg%7Cd via @theeconomist
Thursday, October 1, 2015
The Economist | Predicting the future: Unclouded vision...
The Economist | Predicting the future: Unclouded vision http://www.economist.com/news/books-and-arts/21666098-forecasting-talent-luckily-it-can-be-learned-unclouded-vision?frsc=dg%7Cd via @theeconomist
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21666098-forecasting-talent-luckily-it-can-be-learned-unclouded-vision?frsc=dg%7Cd
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21666098-forecasting-talent-luckily-it-can-be-learned-unclouded-vision?frsc=dg%7Cd
PMI tháng 9 của VN giảm xuống dưới ngưỡng 50, lần đầu tiên kể từ tháng 9/2013.
PMI tháng 9 của VN giảm xuống dưới ngưỡng 50, lần đầu tiên kể từ tháng 9/2013.
http://www.markiteconomics.com/Survey//PressRelease.mvc/25ee010d5b384618b80e2b84499b3b9c
http://www.markiteconomics.com/Survey//PressRelease.mvc/25ee010d5b384618b80e2b84499b3b9c
http://www.markiteconomics.com/Survey//PressRelease.mvc/25ee010d5b384618b80e2b84499b3b9c
http://www.markiteconomics.com/Survey//PressRelease.mvc/25ee010d5b384618b80e2b84499b3b9c
Liên quan đến tranh luận về phương án giá điện, EVN lập luận rằng xây dựng khung giá lũy tiến (progressive) để...
Liên quan đến tranh luận về phương án giá điện, EVN lập luận rằng xây dựng khung giá lũy tiến (progressive) để khuyến khích người dân (và doanh nghiệp?) tiết kiệm điện. Theo tôi biết hình thức giá điện lũy tiến như vậy cũng được một số nước áp dụng, nhưng phổ biến hơn là thang giá phụ thuộc vào thời gian sử dụng điện trong ngày (đòi hỏi phải có đồng hồ điện đặc dụng), những giờ cao điểm có giá cao hơn. Với kế hoạch tự do hóa dần dần thị trường bán lẻ điện, VN nên nghiên cứu và triển khai phương án tính giá theo giờ.
Trước hết bàn về phương án giá lũy tiến. Tôi không nghi ngờ lý do khuyến khích tiết kiệm điện mà EVN đưa ra, nhưng phân tích trên khía cạnh kinh tế học sẽ có một số điều EVN cũng như các nhà quản lý của VN cần lưu ý. Trước hết trên quan điểm kinh tế hình thức giá điện bậc thang (dù có bao nhiêu bậc cũng vậy) là một dạng price discrimination. Ai học qua microeconomics đều biết bằng hình thức định giá này EVN sẽ lấy được phần consumers' surplus mà đáng ra người tiêu dùng được hưởng. Nghe qua thì ý tưởng rất "tư bản" này có vẻ xấu nhưng thực ra không hẳn như vậy.
Cũng theo lý thuyết kinh tế để giảm demand (khuyến khích tiết kiệm) thì cách đơn giản nhất là tăng giá. Quan sát của cá nhân tôi trong những lần về VN là người Việt (ở các thành phố lớn) ít có ý thức tiết kiệm điện. Điều đó cho thấy mức giá trung bình, dẫn đến chi phí trung bình cho nhu cầu sử dụng điện của người dân ở các thành phố so với thu nhập và mức sống còn quá thấp. Nếu mặt bằng giá trung bình được nâng lên tự khắc demand sẽ giảm.
Nhưng vấn đề là nếu điện chỉ được bán ở một mức giá cao hơn thì ngay cả ở các thành phố lớn sẽ có một tầng lớp các gia đình có thu nhập thấp phải tiết giảm sử dụng điện xuống dưới mức tối ưu (cho xã hội), vd con cái trong các gia đình đó không có đủ ánh sáng để học bài dẫn đến giảm thị lực. Nếu ở những nước có hệ thống income transfer tốt thì điều này không thành vấn đề vì những gia đình nghèo sẽ nhận được trợ cấp của chính phủ, có thể trợ cấp trực tiếp vào giá điện. Vì thế mức giá điện bậc thang là một cách trợ cấp gián tiếp của nhà nước cho người nghèo thông qua EVN. Nói cách khác thông qua price discrimination EVN "đánh thuế" hộ nhà nước bằng số consumers' surplus rồi tự động chuyển một phần cho người nghèo.
Một điểm cần lưu ý là dù giầu hay nghèo bạn cũng được hưởng mức giá thấp cho x kwh đầu tiên. Do đó để tránh việc nhà giầu cũng được trợ giá thì khung giá điện phải tăng rất nhanh và/hoặc ngưỡng x kwh phải rất thấp. Đặt các ngưỡng giá ở đâu và tốc độ tăng thế nào phải được tính trong một bài toán tổng thể kết hợp tình hình kinh doanh của EVN với phân bổ thu nhập người dân và chính sách income transfer (ngầm định) của nhà nước. Chỉ tranh cãi giá như vậy cao hay thấp, có phản ánh marginal cost của EVN hay không là chưa đủ.
(Tôi sẽ viết tiếp phần 2 về phương án tính giá theo giờ)
http://www.thesaigontimes.vn/136370/Tai-nguyen-can-kiet-nen-dung-nhieu-dien-phai-tra-nhieu-tien.html
http://www.thesaigontimes.vn/136370/Tai-nguyen-can-kiet-nen-dung-nhieu-dien-phai-tra-nhieu-tien.html
Trước hết bàn về phương án giá lũy tiến. Tôi không nghi ngờ lý do khuyến khích tiết kiệm điện mà EVN đưa ra, nhưng phân tích trên khía cạnh kinh tế học sẽ có một số điều EVN cũng như các nhà quản lý của VN cần lưu ý. Trước hết trên quan điểm kinh tế hình thức giá điện bậc thang (dù có bao nhiêu bậc cũng vậy) là một dạng price discrimination. Ai học qua microeconomics đều biết bằng hình thức định giá này EVN sẽ lấy được phần consumers' surplus mà đáng ra người tiêu dùng được hưởng. Nghe qua thì ý tưởng rất "tư bản" này có vẻ xấu nhưng thực ra không hẳn như vậy.
Cũng theo lý thuyết kinh tế để giảm demand (khuyến khích tiết kiệm) thì cách đơn giản nhất là tăng giá. Quan sát của cá nhân tôi trong những lần về VN là người Việt (ở các thành phố lớn) ít có ý thức tiết kiệm điện. Điều đó cho thấy mức giá trung bình, dẫn đến chi phí trung bình cho nhu cầu sử dụng điện của người dân ở các thành phố so với thu nhập và mức sống còn quá thấp. Nếu mặt bằng giá trung bình được nâng lên tự khắc demand sẽ giảm.
Nhưng vấn đề là nếu điện chỉ được bán ở một mức giá cao hơn thì ngay cả ở các thành phố lớn sẽ có một tầng lớp các gia đình có thu nhập thấp phải tiết giảm sử dụng điện xuống dưới mức tối ưu (cho xã hội), vd con cái trong các gia đình đó không có đủ ánh sáng để học bài dẫn đến giảm thị lực. Nếu ở những nước có hệ thống income transfer tốt thì điều này không thành vấn đề vì những gia đình nghèo sẽ nhận được trợ cấp của chính phủ, có thể trợ cấp trực tiếp vào giá điện. Vì thế mức giá điện bậc thang là một cách trợ cấp gián tiếp của nhà nước cho người nghèo thông qua EVN. Nói cách khác thông qua price discrimination EVN "đánh thuế" hộ nhà nước bằng số consumers' surplus rồi tự động chuyển một phần cho người nghèo.
Một điểm cần lưu ý là dù giầu hay nghèo bạn cũng được hưởng mức giá thấp cho x kwh đầu tiên. Do đó để tránh việc nhà giầu cũng được trợ giá thì khung giá điện phải tăng rất nhanh và/hoặc ngưỡng x kwh phải rất thấp. Đặt các ngưỡng giá ở đâu và tốc độ tăng thế nào phải được tính trong một bài toán tổng thể kết hợp tình hình kinh doanh của EVN với phân bổ thu nhập người dân và chính sách income transfer (ngầm định) của nhà nước. Chỉ tranh cãi giá như vậy cao hay thấp, có phản ánh marginal cost của EVN hay không là chưa đủ.
(Tôi sẽ viết tiếp phần 2 về phương án tính giá theo giờ)
http://www.thesaigontimes.vn/136370/Tai-nguyen-can-kiet-nen-dung-nhieu-dien-phai-tra-nhieu-tien.html
http://www.thesaigontimes.vn/136370/Tai-nguyen-can-kiet-nen-dung-nhieu-dien-phai-tra-nhieu-tien.html
Subscribe to:
Comments (Atom)
Bitcoin II
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html
-
Tôi không phản đối việc tăng giá điện, miễn là nó được quyết định bởi cung cầu và thị trường điện có cạnh tranh. Nhưng phát biểu này của thố...
-
Đọc "Ái tình và Cam ranh" của 5Xu chợt nhớ đến quốc gia này ở châu Phi. Cho dù Cam Ranh có mở cửa cho tàu của TQ vào, Djubouti mới...
-
Dành cho các bạn sinh viên kinh tế: một khoá học econometrics ngắn về network models. http://economistsview.typepad.com/economistsview/2014/...