Nhân bài báo link bên dưới viết "khẩu vị rủi ro lỏng hơn" (chắc dịch từ "looser risk appetite") làm tôi nhớ đến thuật ngữ này trong kinh tế học.
Risk appetite là nghịch đảo của risk aversion trong lý thuyết kinh tế. Risk aversion/appetite thường là một parameter cố định trong hàm utility (vd hàm CARA). Với một parameter cố định hành vi risk taking tăng lên hay giảm xuống phụ thuộc vào lựa chọn của chủ thể để đạt được một mục tiêu nào đó (subject to some constraints).
Giới finance/báo chí sử dụng "risk appetite" theo nghĩa mức độ cao/thấp của "risk taking" hơn là nghĩa parameter trong kinh tế học. Cho nên khi đọc báo/report thấy viết "increased risk appetite" thì phải hiểu là "increased risk taking" vì các yếu tố ngoại lai thay đổi chứ không phải vì chủ thể bỗng dưng thích rủi ro hơn (hàm utility thay đổi).
http://www.thesaigontimes.vn/149322/Thanh-khoan-thua-ma-lai-suat-huy-dong-van-tang.html
http://www.thesaigontimes.vn/149322/Thanh-khoan-thua-ma-lai-suat-huy-dong-van-tang.html
Sunday, July 31, 2016
Tyler Cowen điểm một quyển sách về lịch sử kinh tế TQ từ cổ đại đến hiện đại:
Tyler Cowen điểm một quyển sách về lịch sử kinh tế TQ từ cổ đại đến hiện đại:
"If there is a single common theme running through the many centuries covered by this book, it is the never-fully-successful quest of the Chinese state for revenue and fiscal stability. One reason China fell behind Western Europe in the 18th century is simply that the Chinese state spent less on creating valuable public goods and infrastructure."
http://www.bloomberg.com/view/articles/2016-07-25/seeing-china-through-its-economic-history
http://www.bloomberg.com/view/articles/2016-07-25/seeing-china-through-its-economic-history
"If there is a single common theme running through the many centuries covered by this book, it is the never-fully-successful quest of the Chinese state for revenue and fiscal stability. One reason China fell behind Western Europe in the 18th century is simply that the Chinese state spent less on creating valuable public goods and infrastructure."
http://www.bloomberg.com/view/articles/2016-07-25/seeing-china-through-its-economic-history
http://www.bloomberg.com/view/articles/2016-07-25/seeing-china-through-its-economic-history
Vài năm lại đây các kho lưu trữ của ĐCS TQ được hé mở phần nào và các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm thấy những bằng...
Vài năm lại đây các kho lưu trữ của ĐCS TQ được hé mở phần nào và các nhà nghiên cứu bắt đầu tìm thấy những bằng chứng kinh hoàng về thời Đại nhảy vọt, Cải cách ruộng đất, và cả giai đoạn sau "giải phóng" năm 1949 ở TQ từ các văn bản của chính ĐCS TQ:
"When a boy stole a handful of grain in a Hunan village, local boss Xiong Dechang forced his father to bury him alive. The father died of grief a few days later."
"As report after report shows, food was also used as a weapon. Throughout the country those who were too ill to work were routinely cut off from the food supply. The sick, vulnerable and elderly were banned from the canteen, as cadres found inspiration in Lenin’s dictum: ‘He who does not work shall not eat.’"
"At a secret gathering that took place in Shanghai on March 25th, 1959, Mao specifically ordered the party to procure up to one third of all grain. He announced that: ‘When there is not enough to eat people starve to death. It is better to let half of the people die so that the other half can eat their fill.’"
http://www.historytoday.com/frank-dik%C3%B6tter/looking-back-great-leap-forward
http://www.historytoday.com/frank-dik%C3%B6tter/looking-back-great-leap-forward
"When a boy stole a handful of grain in a Hunan village, local boss Xiong Dechang forced his father to bury him alive. The father died of grief a few days later."
"As report after report shows, food was also used as a weapon. Throughout the country those who were too ill to work were routinely cut off from the food supply. The sick, vulnerable and elderly were banned from the canteen, as cadres found inspiration in Lenin’s dictum: ‘He who does not work shall not eat.’"
"At a secret gathering that took place in Shanghai on March 25th, 1959, Mao specifically ordered the party to procure up to one third of all grain. He announced that: ‘When there is not enough to eat people starve to death. It is better to let half of the people die so that the other half can eat their fill.’"
http://www.historytoday.com/frank-dik%C3%B6tter/looking-back-great-leap-forward
http://www.historytoday.com/frank-dik%C3%B6tter/looking-back-great-leap-forward
Đọc Viet-studies mới biết ở VN có một tờ báo tên là "An ninh Tiền tệ" mà chẳng hiểu sao lại trực thuộc Hội Luật gia...
Đọc Viet-studies mới biết ở VN có một tờ báo tên là "An ninh Tiền tệ" mà chẳng hiểu sao lại trực thuộc Hội Luật gia VN. Tờ báo này có Hội đồng Biên tập rất "khủng":
Đặng Văn Hiếu - Thứ trưởng thường trực Bộ CA
Trần Công Phàn - Phó Viện trưởng VKSNDTC
Vũ Viết Ngoạn - CT UBGSTC
Cao Sỹ Kiêm - cựu TĐ NHNN
Lê Xuân Nghĩa - Viện trưởng BDI
Có điều click vào 10 bài thì có đến 9 bài là dạng "Theo báo ..."
http://www.viet-studies.info/kinhte/MaritimeBank.pdf
http://www.viet-studies.info/kinhte/MaritimeBank.pdf
Đặng Văn Hiếu - Thứ trưởng thường trực Bộ CA
Trần Công Phàn - Phó Viện trưởng VKSNDTC
Vũ Viết Ngoạn - CT UBGSTC
Cao Sỹ Kiêm - cựu TĐ NHNN
Lê Xuân Nghĩa - Viện trưởng BDI
Có điều click vào 10 bài thì có đến 9 bài là dạng "Theo báo ..."
http://www.viet-studies.info/kinhte/MaritimeBank.pdf
http://www.viet-studies.info/kinhte/MaritimeBank.pdf
Friday, July 29, 2016
(tiếp theo)
(tiếp theo)
Về vấn đề thảm thực vật và độ mầu mỡ của đất, Philippines viện dẫn tài liệu từ "Division Botanique à l’Institut des Recherches Agronomiques de L’Indochine" [P. 431] và báo cáo của một chuyên gia về đất đai trên đảo Ba Bình [P. 437] để khẳng định các đảo ở TS hầu như không có cây cối gì và đất không đủ tốt để trồng lương thực. Nghiên cứu của Đài Loan năm 1994 cũng cho rằng lớp đất bề mặt Ba Bình không tốt.
Nhưng toà đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy lập luận của Philippines không chính xác. Tài liệu cuộc khảo sát đầu tiên của hải quân Anh năm 1868 cho biết trên đảo Ba Bình (và Thị Tứ) ngoài thảm thực vật còn có một số cây to [P. 585]. Trong giai đoạn 1920-1940 người Nhật chiếm đảo và đã trồng một số loại cây (dừa, cọ, đu đủ, chuối, dứa) rất thành công [P. 586]. Có giai đoạn đu đủ phủ kín Ba Bình nên đảo này còn có tên lóng "Đảo Đu đủ" [P. 588]. Cũng trích dẫn tài liệu của Pháp năm 1936 nhưng toà chỉ ra các nhà khảo sát người Pháp đã tìm thấy những cây gỗ cứng cao hơn 20m và đường kính lên đến 1-2m trên đảo Ba Bình [P. 590].
Về chất lượng đất bề mặt toà không tìm được tài liệu nào phản bác hoàn toàn lập luận của Philippines nhưng toà cho rằng việc Nhật đã thành công trồng cây (rau/quả) phục vụ cho các hoạt động của họ trong giai đoạn 1920-1940 là bằng chứng rõ ràng nhất về độ mầu mỡ của đất [P. 596]. Cho nên dù toà đồng ý là Ba Bình có mức độ đa dạng thực vật thấp, cây cối chủ yếu được đưa từ ngoài vào, và diện tích đất có thể quá nhỏ để trồng cây nông nghiệp phục vụ cho một cộng đồng dân cư lớn, về tổng thể tôi đánh giá Philippines đã "thua" cả ở hai khía cạnh này.
Xét cả ba điều kiện tự nhiên (nước ngọt, thảm thực vật, lớp đất) một cách công bằng tôi nghĩ toà hoàn toàn có thể kết luận Ba Bình đủ khả năng "sustain human habitation", chí ít cho một cộng đồng dân cư nhỏ. Toà gần như đã xác nhận điều này trong Paragraph 635 khi cho rằng một nhóm nhỏ ngư dân từ Hải Nam đã có thể sống chỉ với tài nguyên của Ba Bình. Tuy nhiên ngay sau đó toà đã có một lập luận rất bất ngờ, tôi nghĩ phía TQ và có thể một số luật gia quốc tế sẽ rất "bất bình". Toà cho rằng những điều kiện tự nhiên chưa đủ chắc chắn mà còn phải xem trong lịch sử đã có một cộng đồng dân cư nào sống trên các thực thể ở TS hay chưa [P. 616]. Điều này xem ra có vẻ mâu thuẫn với cách giải thích chữ "cannot" trong Điều 121(3), theo đó toà cho rằng chỉ cần xét về "capacity" thôi chứ không cần buộc phải có một cộng đồng dân cư sinh sống [P. 483].
Tất nhiên ngoại trừ một số ngư dân đến trú trên đảo một thời gian ngắn và giai đoạn Nhật đồn trú trước WWII, không có bằng chứng nào cho thấy trên bất kỳ đảo nào ở TS có dân cư sinh sống. Toà đòi hỏi một cộng đồng dân cư phải sinh sống dài hạn và coi Ba Bình như là "nhà" chứ không phải chỉ đến sống một thời gian [P. 618]. Chỉ trừ nhóm của Thomas Cloma đã từng có ý định lập một quốc gia độc lập ở TS (nhưng thất bại), tất cả những người từng đến Ba Bình sống đều chỉ với mục đích khai thác tài nguyên rồi về [P. 621].
Cẩn thận hơn toà còn tuyên bố không có bằng chứng nào cho thấy sự thiếu vắng một cộng đồng dân cư (lâu dài) ở TS là do có ai đó cưỡng bức (không cho sống ở đây) [P. 622]. Do vậy sự thiếu vắng này là bằng chứng quan trọng nhất mà toà viện dẫn để bác bỏ khả năng "sustain human habitation" trên đảo Ba Bình.
(còn tiếp)
PS. Đảo Trường Sa Lớn và An Bang của VN trong điều kiện nguyên thuỷ không có cây to. Năm 1864 thuỷ thủ đoàn của chiến hạm Anh Rifleman đã trồng những cây dừa đầu tiên lên 2 đảo này [P. 585].
PPS. Không biết Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đông dương (l’Institut des Recherches Agronomiques de L’Indochine) đặt ở đâu, bây giờ còn không. Nếu VN kiện TQ ở HS như Philippines kiện ở TS thì rất có thể cần đến tài liệu khảo sát ở HS của viện này. HS gần hơn và Pháp chiếm đóng sớm hơn nên chắc chắn họ đã khảo sát rất kỹ địa chất/thực vật/đất đai ở các đảo HS.
Về vấn đề thảm thực vật và độ mầu mỡ của đất, Philippines viện dẫn tài liệu từ "Division Botanique à l’Institut des Recherches Agronomiques de L’Indochine" [P. 431] và báo cáo của một chuyên gia về đất đai trên đảo Ba Bình [P. 437] để khẳng định các đảo ở TS hầu như không có cây cối gì và đất không đủ tốt để trồng lương thực. Nghiên cứu của Đài Loan năm 1994 cũng cho rằng lớp đất bề mặt Ba Bình không tốt.
Nhưng toà đưa ra nhiều bằng chứng cho thấy lập luận của Philippines không chính xác. Tài liệu cuộc khảo sát đầu tiên của hải quân Anh năm 1868 cho biết trên đảo Ba Bình (và Thị Tứ) ngoài thảm thực vật còn có một số cây to [P. 585]. Trong giai đoạn 1920-1940 người Nhật chiếm đảo và đã trồng một số loại cây (dừa, cọ, đu đủ, chuối, dứa) rất thành công [P. 586]. Có giai đoạn đu đủ phủ kín Ba Bình nên đảo này còn có tên lóng "Đảo Đu đủ" [P. 588]. Cũng trích dẫn tài liệu của Pháp năm 1936 nhưng toà chỉ ra các nhà khảo sát người Pháp đã tìm thấy những cây gỗ cứng cao hơn 20m và đường kính lên đến 1-2m trên đảo Ba Bình [P. 590].
Về chất lượng đất bề mặt toà không tìm được tài liệu nào phản bác hoàn toàn lập luận của Philippines nhưng toà cho rằng việc Nhật đã thành công trồng cây (rau/quả) phục vụ cho các hoạt động của họ trong giai đoạn 1920-1940 là bằng chứng rõ ràng nhất về độ mầu mỡ của đất [P. 596]. Cho nên dù toà đồng ý là Ba Bình có mức độ đa dạng thực vật thấp, cây cối chủ yếu được đưa từ ngoài vào, và diện tích đất có thể quá nhỏ để trồng cây nông nghiệp phục vụ cho một cộng đồng dân cư lớn, về tổng thể tôi đánh giá Philippines đã "thua" cả ở hai khía cạnh này.
Xét cả ba điều kiện tự nhiên (nước ngọt, thảm thực vật, lớp đất) một cách công bằng tôi nghĩ toà hoàn toàn có thể kết luận Ba Bình đủ khả năng "sustain human habitation", chí ít cho một cộng đồng dân cư nhỏ. Toà gần như đã xác nhận điều này trong Paragraph 635 khi cho rằng một nhóm nhỏ ngư dân từ Hải Nam đã có thể sống chỉ với tài nguyên của Ba Bình. Tuy nhiên ngay sau đó toà đã có một lập luận rất bất ngờ, tôi nghĩ phía TQ và có thể một số luật gia quốc tế sẽ rất "bất bình". Toà cho rằng những điều kiện tự nhiên chưa đủ chắc chắn mà còn phải xem trong lịch sử đã có một cộng đồng dân cư nào sống trên các thực thể ở TS hay chưa [P. 616]. Điều này xem ra có vẻ mâu thuẫn với cách giải thích chữ "cannot" trong Điều 121(3), theo đó toà cho rằng chỉ cần xét về "capacity" thôi chứ không cần buộc phải có một cộng đồng dân cư sinh sống [P. 483].
Tất nhiên ngoại trừ một số ngư dân đến trú trên đảo một thời gian ngắn và giai đoạn Nhật đồn trú trước WWII, không có bằng chứng nào cho thấy trên bất kỳ đảo nào ở TS có dân cư sinh sống. Toà đòi hỏi một cộng đồng dân cư phải sinh sống dài hạn và coi Ba Bình như là "nhà" chứ không phải chỉ đến sống một thời gian [P. 618]. Chỉ trừ nhóm của Thomas Cloma đã từng có ý định lập một quốc gia độc lập ở TS (nhưng thất bại), tất cả những người từng đến Ba Bình sống đều chỉ với mục đích khai thác tài nguyên rồi về [P. 621].
Cẩn thận hơn toà còn tuyên bố không có bằng chứng nào cho thấy sự thiếu vắng một cộng đồng dân cư (lâu dài) ở TS là do có ai đó cưỡng bức (không cho sống ở đây) [P. 622]. Do vậy sự thiếu vắng này là bằng chứng quan trọng nhất mà toà viện dẫn để bác bỏ khả năng "sustain human habitation" trên đảo Ba Bình.
(còn tiếp)
PS. Đảo Trường Sa Lớn và An Bang của VN trong điều kiện nguyên thuỷ không có cây to. Năm 1864 thuỷ thủ đoàn của chiến hạm Anh Rifleman đã trồng những cây dừa đầu tiên lên 2 đảo này [P. 585].
PPS. Không biết Viện Nghiên cứu Nông nghiệp Đông dương (l’Institut des Recherches Agronomiques de L’Indochine) đặt ở đâu, bây giờ còn không. Nếu VN kiện TQ ở HS như Philippines kiện ở TS thì rất có thể cần đến tài liệu khảo sát ở HS của viện này. HS gần hơn và Pháp chiếm đóng sớm hơn nên chắc chắn họ đã khảo sát rất kỹ địa chất/thực vật/đất đai ở các đảo HS.
Như đã viết trong một stt trước đây, quan điểm của toà giải thích Điều 121(3) là một thực thể phải thoả mãn cùng lúc...
Như đã viết trong một stt trước đây, quan điểm của toà giải thích Điều 121(3) là một thực thể phải thoả mãn cùng lúc hai điều kiện:
1/ Có khả năng đảm bảo cuộc sống lâu dài cho một cộng đồng dân chúng (sustain human habitation), và
2/ Có khả năng đảm bảo một nền kinh tế biệt lập (sustain economic life on their own)
để được công nhận là đảo (island), nghĩa là có EEZ thay vì là đá (rock) chỉ có 12 hải lý territorial sea. Ngoài ra toà cũng cho rằng 2 điều kiện này phải được thoả mãn trong điều kiện nguyên thuỷ trước khi có bàn tay con người cải tạo. Bởi vậy đối với các thực thể ở TS toà chủ yếu xem xét các bằng chứng từ trước WWII, chỉ sử dụng rất hãn hữu những thông tin thu thập sau này. Cũng chính vì toà xét điều kiện nguyên thuỷ trước đây nên những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến sau này dù có thể giúp cải tạo điều kiện sống (vd công nghệ lọc nước biển, pin mặt trời...) sẽ không được tính đến. Đây là một điểm quan trọng VN cần lưu ý, nếu sau này kiện TQ tương tự ở HS cần chuẩn bị kỹ các bằng chứng/tài liệu trong giai đoạn trước 1945.
Để thoả mãn điều kiện 1 toà xét đến các điều kiện tự nhiên sau đây: (i) nguồn nước ngọt trên đảo, (ii) thảm thực vật, (iii) độ mầu mỡ của lớp đất trên bề mặt đảo (để đảm bảo trồng được lương thực). Toà cho rằng những điều kiện đảm bảo sự sống của con người không nhất thiết phải có hết trên 1 hòn đảo mà có thể trên nhiều hòn đảo khác nhau, miễn là chúng không quá xa nhau.
Về vấn đề nước ngọt Philippines đưa ra một số nguồn khảo sát từ văn khố của Anh (1868) và Pháp (1936) [P. 430-431] để chứng minh rằng Ba Bình thiếu tài nguyên này. Quan trọng hơn Philippines đưa ra một bản báo cáo của chính Đài Loan thực hiện năm 1994 cho rằng Ba Bình không đủ nước ngọt và điều kiện để đảm bảo cuộc sống của con người [P. 428]. Một chuyên gia được mời đến toà cũng cho rằng với diện tích tích nước (mưa) nhỏ như vậy nguồn nước ngọt của Ba Bình rất bấp bênh và rất dễ bị nhiễm mặn [P. 436]. Philippines cũng khẳng định trên 2 hòn đảo Thị Tứ và Bến Lạc do họ kiểm soát không có nước ngọt mà chỉ có nước lợ [P. 441-442].
Tuy nhiên toà không đồng ý với lập luận của Philippines. Dẫn chứng tài liệu của Anh năm 1868 [P. 580] toà cho rằng Ba Bình có giếng nước ngọt. Những cuộc khảo sát sau đó của Anh, Pháp, Nhật đều khẳng định điều này, thậm chí các đảo khác cũng có nước đủ ngọt để có thể uống được (Thị Tứ, Nam Yết, Song Tử Tây, Trường Sa Lớn). Tài liệu của Nhật thậm chí còn cho rằng chất lượng nước ngọt ở Ba Bình rất tốt và một ngày có thể khai thác 10m3 mà không hề hấn gì [P. 582]. Toà thậm chí còn "bênh" Đài Loan khi cho rằng hiện tại (báo cáo 1994) đảo này có thể bị mất nguồn nước ngọt vì khi bê tông hoá khả năng hấp thụ nước mưa bị kém đi.
Tóm lại một số đảo của TS, đặc biệt là Ba Bình có nước ngọt. Philippines "thua" ở điểm này.
(còn tiếp)
1/ Có khả năng đảm bảo cuộc sống lâu dài cho một cộng đồng dân chúng (sustain human habitation), và
2/ Có khả năng đảm bảo một nền kinh tế biệt lập (sustain economic life on their own)
để được công nhận là đảo (island), nghĩa là có EEZ thay vì là đá (rock) chỉ có 12 hải lý territorial sea. Ngoài ra toà cũng cho rằng 2 điều kiện này phải được thoả mãn trong điều kiện nguyên thuỷ trước khi có bàn tay con người cải tạo. Bởi vậy đối với các thực thể ở TS toà chủ yếu xem xét các bằng chứng từ trước WWII, chỉ sử dụng rất hãn hữu những thông tin thu thập sau này. Cũng chính vì toà xét điều kiện nguyên thuỷ trước đây nên những thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến sau này dù có thể giúp cải tạo điều kiện sống (vd công nghệ lọc nước biển, pin mặt trời...) sẽ không được tính đến. Đây là một điểm quan trọng VN cần lưu ý, nếu sau này kiện TQ tương tự ở HS cần chuẩn bị kỹ các bằng chứng/tài liệu trong giai đoạn trước 1945.
Để thoả mãn điều kiện 1 toà xét đến các điều kiện tự nhiên sau đây: (i) nguồn nước ngọt trên đảo, (ii) thảm thực vật, (iii) độ mầu mỡ của lớp đất trên bề mặt đảo (để đảm bảo trồng được lương thực). Toà cho rằng những điều kiện đảm bảo sự sống của con người không nhất thiết phải có hết trên 1 hòn đảo mà có thể trên nhiều hòn đảo khác nhau, miễn là chúng không quá xa nhau.
Về vấn đề nước ngọt Philippines đưa ra một số nguồn khảo sát từ văn khố của Anh (1868) và Pháp (1936) [P. 430-431] để chứng minh rằng Ba Bình thiếu tài nguyên này. Quan trọng hơn Philippines đưa ra một bản báo cáo của chính Đài Loan thực hiện năm 1994 cho rằng Ba Bình không đủ nước ngọt và điều kiện để đảm bảo cuộc sống của con người [P. 428]. Một chuyên gia được mời đến toà cũng cho rằng với diện tích tích nước (mưa) nhỏ như vậy nguồn nước ngọt của Ba Bình rất bấp bênh và rất dễ bị nhiễm mặn [P. 436]. Philippines cũng khẳng định trên 2 hòn đảo Thị Tứ và Bến Lạc do họ kiểm soát không có nước ngọt mà chỉ có nước lợ [P. 441-442].
Tuy nhiên toà không đồng ý với lập luận của Philippines. Dẫn chứng tài liệu của Anh năm 1868 [P. 580] toà cho rằng Ba Bình có giếng nước ngọt. Những cuộc khảo sát sau đó của Anh, Pháp, Nhật đều khẳng định điều này, thậm chí các đảo khác cũng có nước đủ ngọt để có thể uống được (Thị Tứ, Nam Yết, Song Tử Tây, Trường Sa Lớn). Tài liệu của Nhật thậm chí còn cho rằng chất lượng nước ngọt ở Ba Bình rất tốt và một ngày có thể khai thác 10m3 mà không hề hấn gì [P. 582]. Toà thậm chí còn "bênh" Đài Loan khi cho rằng hiện tại (báo cáo 1994) đảo này có thể bị mất nguồn nước ngọt vì khi bê tông hoá khả năng hấp thụ nước mưa bị kém đi.
Tóm lại một số đảo của TS, đặc biệt là Ba Bình có nước ngọt. Philippines "thua" ở điểm này.
(còn tiếp)
Thursday, July 28, 2016
Paragraph 437 trong phán quyết của toà có một lỗi chính tả, chữ "expert report" bị viết nhầm thành "export report"...
Paragraph 437 trong phán quyết của toà có một lỗi chính tả, chữ "expert report" bị viết nhầm thành "export report" :-)
Mấy hôm trước tôi đã viết về Điều 121(3) UNCLOS, thực ra chỉ về khía cạnh logic của một chữ "OR" trong điều khoản...
Mấy hôm trước tôi đã viết về Điều 121(3) UNCLOS, thực ra chỉ về khía cạnh logic của một chữ "OR" trong điều khoản chưa đến 2 dòng đó. Tất nhiên điều khoản này còn nhiều điều quan trọng khác, không chỉ cho vụ kiện PvsC này mà còn cho toàn bộ tinh thần của UNCLOS (tôi đã phân tích trong stt về EEZ). Vì tầm quan trọng của nó nên toà đã dành 80 paragraph để phân tích câu chữ, nội dung, ý nghĩa, hoàn cảnh ra đời của điều khoản này [P. 473 - 553], tôi thực sự thích thú và học được rất nhiều khi đọc đoạn phán quyết này. Highly recommended.
Sau đó toà áp dụng điều khoản này và các thông tin từ không ảnh, hải đồ, số liệu survey và các nguồn tài liệu khác để đánh giá đặc tính rock vs island cho những thực thể mà Philippines khởi kiện (Submissions 3, 5, 7). Nhưng như đã giải thích trước đây, vì Submission 5 yêu cầu toà phân xử về Mischief Reef và Second Thomas Shoal có nằm hoàn toàn trong EEZ của Philippines hay không nên toà mở rộng ra xem xét thêm Top 6 thực thể lớn nhất trong quần đảo TS. Năm trong số Top 6 do VN và Philippines quản lý và cả 2 quốc gia này đều không claim EEZ cho những thực thể đó, bởi vậy thực chất chỉ còn Ba Bình của Đài Loan là trọng tâm trong phán quyết của toà.
Với VN phán quyết của toà về Ba Bình còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng nữa, đó là những lập luận về đảo này có thể cũng sẽ được áp dụng với các đảo ở Hoàng Sa. Như đã viết 2 năm trước (xem link bên dưới) VN có một phương án "kiện" TQ là xin ITLOS đưa ra "legal opinion" về đặc tính rock vs island (có EEZ hay không) của tất cả các đảo ở HS-TS. Sau vụ kiện này (PvsC) và nhất là sau phán quyết về Ba Bình, VN sẽ có nhiều thuận lợi hơn nếu thực hiện phương án "kiện" như tôi đã từng đề xuất. Đó là lý do tôi rất quan tâm đến việc PCA áp dụng Điều 121(3) với Ba Bình như thế nào. Tôi sẽ viết chi tiết các phân tích và phán quyết của toà trong stt tới.
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html
Sau đó toà áp dụng điều khoản này và các thông tin từ không ảnh, hải đồ, số liệu survey và các nguồn tài liệu khác để đánh giá đặc tính rock vs island cho những thực thể mà Philippines khởi kiện (Submissions 3, 5, 7). Nhưng như đã giải thích trước đây, vì Submission 5 yêu cầu toà phân xử về Mischief Reef và Second Thomas Shoal có nằm hoàn toàn trong EEZ của Philippines hay không nên toà mở rộng ra xem xét thêm Top 6 thực thể lớn nhất trong quần đảo TS. Năm trong số Top 6 do VN và Philippines quản lý và cả 2 quốc gia này đều không claim EEZ cho những thực thể đó, bởi vậy thực chất chỉ còn Ba Bình của Đài Loan là trọng tâm trong phán quyết của toà.
Với VN phán quyết của toà về Ba Bình còn có một ý nghĩa vô cùng quan trọng nữa, đó là những lập luận về đảo này có thể cũng sẽ được áp dụng với các đảo ở Hoàng Sa. Như đã viết 2 năm trước (xem link bên dưới) VN có một phương án "kiện" TQ là xin ITLOS đưa ra "legal opinion" về đặc tính rock vs island (có EEZ hay không) của tất cả các đảo ở HS-TS. Sau vụ kiện này (PvsC) và nhất là sau phán quyết về Ba Bình, VN sẽ có nhiều thuận lợi hơn nếu thực hiện phương án "kiện" như tôi đã từng đề xuất. Đó là lý do tôi rất quan tâm đến việc PCA áp dụng Điều 121(3) với Ba Bình như thế nào. Tôi sẽ viết chi tiết các phân tích và phán quyết của toà trong stt tới.
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/09/vietnam-vs-china.html
Monday, July 25, 2016
Dành cho những ai không quan tâm đến bài nói chuyện của tỷ phú Phạm Nhật Vượng: 40 phút podcast này của Malcolm...
Dành cho những ai không quan tâm đến bài nói chuyện của tỷ phú Phạm Nhật Vượng: 40 phút podcast này của Malcolm Gladwell về một sự kiện nhở ở Sài Gòn năm 1965 rất đáng nghe. Ngoài podcast, Gladwell còn link đến 2 bản report của Rand Corp những năm 1960s, có thể có ích cho các nhà sử học.
PS. Nghe giọng bà Mai Elliott, dù với accent tiếng Anh rất chuẩn, tôi vẫn thấy phảng phất âm hưởng của một người phụ nữ Hà Nội. Bà Mai cũng có một tự truyện về cuộc đời và gia đình của bà (The Sacred Willow), có thể có nhiều tư liệu về lịch sử VN giai đoạn 1945-1975.
http://revisionisthistory.com/episodes/02-saigon-1965
http://revisionisthistory.com/episodes/02-saigon-1965
PS. Nghe giọng bà Mai Elliott, dù với accent tiếng Anh rất chuẩn, tôi vẫn thấy phảng phất âm hưởng của một người phụ nữ Hà Nội. Bà Mai cũng có một tự truyện về cuộc đời và gia đình của bà (The Sacred Willow), có thể có nhiều tư liệu về lịch sử VN giai đoạn 1945-1975.
http://revisionisthistory.com/episodes/02-saigon-1965
http://revisionisthistory.com/episodes/02-saigon-1965
Saturday, July 23, 2016
EEZ - Exclusive Economic Zone - là một thuật ngữ được nhắc đến rất nhiều sau phiên toà PvsC.
EEZ - Exclusive Economic Zone - là một thuật ngữ được nhắc đến rất nhiều sau phiên toà PvsC. Hiểu một cách đơn giản EEZ là vùng biển rộng 200 hải lý tính từ bờ của đất liền hoặc đảo của một quốc gia mà trong vùng biển đó chỉ duy nhất họ có quyền khai thác tài nguyên. Trước đây tôi vẫn nghĩ EEZ như là một thứ "đặc quyền" của một quốc gia ven biển, không quan tâm lắm tại sao các quốc gia lại có quyền như vậy. Cho đến khi đọc phán quyết của PCA [P. 512-520] tôi mới dần dần hiểu ra rằng EEZ nói riêng và UNCLOS nói chung có ý nghĩa sâu xa hơn việc "chia chác" mặt biển.
Trước hết cần nói thêm một chút về quá trình hình thành khái niệm EEZ, chỉ xuất hiện trong UNCLOS III (1982) là bộ luật biển cuối cùng mà toà PCA vừa dựa vào để xử vụ PvsC. Trước đây (cho đến đầu thế kỷ 20) các quốc gia chỉ có territorial sea, vùng biển rộng 3 hải lý tính từ bờ. Bên ngoài territorial sea được coi là vùng biển quốc tế, nghĩa là quốc gia không còn quyền (quản lý/khai thác) nào nữa. Rõ ràng nguyên tắc này có lợi cho các cường quốc hàng hải (Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha...) thời thực dân. Nó trở nên không phù hợp khi năng lực khai thác tài nguyên (đánh cá, khai thác khoáng sản) vươn xa dần ra ngoài đại dương.
Mỹ là quốc gia đầu tiên phá vỡ trật tự này khi tổng thống Truman tuyên bố vào năm 1945 quyền quản lý tài nguyên kéo dài ra hết thềm lục địa (continental shelf - CS) của họ. Một loạt các quốc gia khác bắt chước Mỹ cũng đơn phương tuyên bố chủ quyền của mình, trong đó có Trung Hoa Dân Quốc với đường 9 đoạn nổi tiếng (xấu) sau này. Tất nhiên khi đòi hỏi chủ quyền của các nước được nới rộng ra như vậy, sự chồng lấn và tranh chấp sẽ không thể tránh khỏi. Bởi vậy nhu cầu một bộ luật quốc tế để đưa ra các nguyên tắc về chủ quyền xuất hiện, UNCLOS I (1956) ra đời bao gồm 4 hiệp định quốc tế. Một trong số đó qui định về CS của các nước.
Vấn đề là CS là một khái niệm khá phức tạp và mơ hồ, những nước nghèo sẽ không đủ năng lực (kỹ thuật/khoa học) để tự xác định ranh giới CS của mình. Tôi nghi ngờ rằng vì ở thời điểm năm 1948 Trung Hoa Dân Quốc không đủ khả năng thăm dò/xác định CS của mình nên đã vẽ đại đường 9 đoạn để giành chủ quyền của mình cái đã. Khái niệm CS cũng tiềm ẩn sự không công bằng vì nó phụ thuộc vào điều kiện địa chất dưới đáy biển mà không đếm xỉa gì đến các cộng đồng dân chúng sống quanh khu vực biển đó. Bởi vậy UNCLOS II (1960) đã được manh nha với ý tưởng viết lại các qui định của UNCLOS I, nhưng cố gắng này đã thất bại khi cuộc chiến tranh lạnh đang ở đỉnh điểm.
Đối mặt với khó khăn không xác định được CS của mình, một số nước (đang phát triển) đưa ra giới hạn 200 hải lý tính từ bờ để xác định chủ quyền (kinh tế) biển. Cách xác định này được sự ủng hộ của nhiều nước vì nó đơn giản, tương đối hợp lý (so với độ rộng của các CS trước đó) và nhất là nó rất minh bạch. UNCLOS III, được đàm phán từ năm 1973 và kết thúc vào năm 1982 đã chính thức đưa ra khái niệm EEZ với cách xác định như vậy. Có thể nói đưa được EEZ vào UNCLOS là một thắng lợi của các nước nghèo/nhỏ để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cường quốc biển. Bởi vậy không có gì khó hiểu khi những nước như Malta, Micronesia, Palau, Singapore, Columbia, Mexico... tham gia rất tích cực vào quá trình đàm phán UNCLOS III.
EEZ, và rộng hơn là UNCLOS III, bảo vệ tài nguyên biển cho những nước nghèo/nhỏ ven biển trước những quốc gia có tiềm lực mạnh hơn. Nhưng xa hơn thế UNCLOS III còn tính đến cả quyền lợi của các nước không có biển (land-locked). Lập luận của UNCLOS là tài nguyên biển trước hết phải để phục vụ cho cộng đồng dân chúng sống gần đó, trên đất liền hoặc trên đảo. Nhưng vượt ra khỏi phạm vi các EEZ tài nguyên phải thuộc về toàn bộ nhân loại, trong đó có cả các quốc gia không có biển (tôi đã viết về vấn đề này năm 2014 - link bên dưới).
Tinh thần công bằng này được thể hiện rõ trong phần Preamble (giới thiệu) của UNCLOS 1982:
_“...contribute to the realization of a just and equitable international
economic order which takes into account the interests and needs of mankind as a whole and, in particular, the special interests and needs of developing countries, whether coastal or land-locked.”_
Sau khi đọc xong những phân tích của PCA về mục đích của EEZ (cũng như của Điều 121(3)) tôi chợt nhận ra rằng cách hiểu trước đây của mình về khái niệm EEZ (chỉ là nguyên tắc "chia chác") có phần hời hợt. EEZ và rộng hơn là UNCLOS đem lại sự công bằng cho mọi quốc gia, để từ đó thúc đẩy sự thịnh vượng và hoà bình cho nhân loại. Có thể vẫn có những người/những quốc gia tham lam chống lại trào lưu này, nhưng chúng ta vẫn nên hướng theo những tư tưởng nhân bản/văn minh mà UNCLOS đã cố gắng đem lại.
PS. Trong giai đoạn đàm phán UNCLOS III, chắc chắn có đại diện của VNCH tham gia và rất có thể họ đã có những đóng góp đáng kể. Sau năm 1976 đại diện của CHXHCNVN đã có mặt và ký vào văn bản cuối cùng năm 1982. Nếu được gặp những người này tôi sẽ cám ơn họ đã góp phần xây dựng một phần lịch sử và văn minh nhân loại. Nhờ một phần công sức của họ mà 40 năm sau chúng ta có cơ sở chống lại sự "bắt nạt" của TQ và tôi tin lẽ phải/công bằng sẽ chiến thắng. Rất mong các bạn nhà báo điều tra xem các đại diện của VNCH/CHXHCNVN là ai, họ xứng đáng được nhận những lời tri ân của chúng ta, ít nhất trên mặt báo hay trên mạng xã hội.
https://plus.google.com/+GiangLe_KinhTeTaiChinh/posts/JLyaRfEn2hU
Trước hết cần nói thêm một chút về quá trình hình thành khái niệm EEZ, chỉ xuất hiện trong UNCLOS III (1982) là bộ luật biển cuối cùng mà toà PCA vừa dựa vào để xử vụ PvsC. Trước đây (cho đến đầu thế kỷ 20) các quốc gia chỉ có territorial sea, vùng biển rộng 3 hải lý tính từ bờ. Bên ngoài territorial sea được coi là vùng biển quốc tế, nghĩa là quốc gia không còn quyền (quản lý/khai thác) nào nữa. Rõ ràng nguyên tắc này có lợi cho các cường quốc hàng hải (Anh, Hà Lan, Tây Ban Nha...) thời thực dân. Nó trở nên không phù hợp khi năng lực khai thác tài nguyên (đánh cá, khai thác khoáng sản) vươn xa dần ra ngoài đại dương.
Mỹ là quốc gia đầu tiên phá vỡ trật tự này khi tổng thống Truman tuyên bố vào năm 1945 quyền quản lý tài nguyên kéo dài ra hết thềm lục địa (continental shelf - CS) của họ. Một loạt các quốc gia khác bắt chước Mỹ cũng đơn phương tuyên bố chủ quyền của mình, trong đó có Trung Hoa Dân Quốc với đường 9 đoạn nổi tiếng (xấu) sau này. Tất nhiên khi đòi hỏi chủ quyền của các nước được nới rộng ra như vậy, sự chồng lấn và tranh chấp sẽ không thể tránh khỏi. Bởi vậy nhu cầu một bộ luật quốc tế để đưa ra các nguyên tắc về chủ quyền xuất hiện, UNCLOS I (1956) ra đời bao gồm 4 hiệp định quốc tế. Một trong số đó qui định về CS của các nước.
Vấn đề là CS là một khái niệm khá phức tạp và mơ hồ, những nước nghèo sẽ không đủ năng lực (kỹ thuật/khoa học) để tự xác định ranh giới CS của mình. Tôi nghi ngờ rằng vì ở thời điểm năm 1948 Trung Hoa Dân Quốc không đủ khả năng thăm dò/xác định CS của mình nên đã vẽ đại đường 9 đoạn để giành chủ quyền của mình cái đã. Khái niệm CS cũng tiềm ẩn sự không công bằng vì nó phụ thuộc vào điều kiện địa chất dưới đáy biển mà không đếm xỉa gì đến các cộng đồng dân chúng sống quanh khu vực biển đó. Bởi vậy UNCLOS II (1960) đã được manh nha với ý tưởng viết lại các qui định của UNCLOS I, nhưng cố gắng này đã thất bại khi cuộc chiến tranh lạnh đang ở đỉnh điểm.
Đối mặt với khó khăn không xác định được CS của mình, một số nước (đang phát triển) đưa ra giới hạn 200 hải lý tính từ bờ để xác định chủ quyền (kinh tế) biển. Cách xác định này được sự ủng hộ của nhiều nước vì nó đơn giản, tương đối hợp lý (so với độ rộng của các CS trước đó) và nhất là nó rất minh bạch. UNCLOS III, được đàm phán từ năm 1973 và kết thúc vào năm 1982 đã chính thức đưa ra khái niệm EEZ với cách xác định như vậy. Có thể nói đưa được EEZ vào UNCLOS là một thắng lợi của các nước nghèo/nhỏ để bảo vệ quyền lợi của mình trước các cường quốc biển. Bởi vậy không có gì khó hiểu khi những nước như Malta, Micronesia, Palau, Singapore, Columbia, Mexico... tham gia rất tích cực vào quá trình đàm phán UNCLOS III.
EEZ, và rộng hơn là UNCLOS III, bảo vệ tài nguyên biển cho những nước nghèo/nhỏ ven biển trước những quốc gia có tiềm lực mạnh hơn. Nhưng xa hơn thế UNCLOS III còn tính đến cả quyền lợi của các nước không có biển (land-locked). Lập luận của UNCLOS là tài nguyên biển trước hết phải để phục vụ cho cộng đồng dân chúng sống gần đó, trên đất liền hoặc trên đảo. Nhưng vượt ra khỏi phạm vi các EEZ tài nguyên phải thuộc về toàn bộ nhân loại, trong đó có cả các quốc gia không có biển (tôi đã viết về vấn đề này năm 2014 - link bên dưới).
Tinh thần công bằng này được thể hiện rõ trong phần Preamble (giới thiệu) của UNCLOS 1982:
_“...contribute to the realization of a just and equitable international
economic order which takes into account the interests and needs of mankind as a whole and, in particular, the special interests and needs of developing countries, whether coastal or land-locked.”_
Sau khi đọc xong những phân tích của PCA về mục đích của EEZ (cũng như của Điều 121(3)) tôi chợt nhận ra rằng cách hiểu trước đây của mình về khái niệm EEZ (chỉ là nguyên tắc "chia chác") có phần hời hợt. EEZ và rộng hơn là UNCLOS đem lại sự công bằng cho mọi quốc gia, để từ đó thúc đẩy sự thịnh vượng và hoà bình cho nhân loại. Có thể vẫn có những người/những quốc gia tham lam chống lại trào lưu này, nhưng chúng ta vẫn nên hướng theo những tư tưởng nhân bản/văn minh mà UNCLOS đã cố gắng đem lại.
PS. Trong giai đoạn đàm phán UNCLOS III, chắc chắn có đại diện của VNCH tham gia và rất có thể họ đã có những đóng góp đáng kể. Sau năm 1976 đại diện của CHXHCNVN đã có mặt và ký vào văn bản cuối cùng năm 1982. Nếu được gặp những người này tôi sẽ cám ơn họ đã góp phần xây dựng một phần lịch sử và văn minh nhân loại. Nhờ một phần công sức của họ mà 40 năm sau chúng ta có cơ sở chống lại sự "bắt nạt" của TQ và tôi tin lẽ phải/công bằng sẽ chiến thắng. Rất mong các bạn nhà báo điều tra xem các đại diện của VNCH/CHXHCNVN là ai, họ xứng đáng được nhận những lời tri ân của chúng ta, ít nhất trên mặt báo hay trên mạng xã hội.
https://plus.google.com/+GiangLe_KinhTeTaiChinh/posts/JLyaRfEn2hU
Friday, July 22, 2016
Bạn Vũ Đại Lâm hỏi VN hiện đang có đá, LTE, nhà giàn nào trong vùng EEZ của Philippines.
Bạn Vũ Đại Lâm hỏi VN hiện đang có đá, LTE, nhà giàn nào trong vùng EEZ của Philippines. Đây là câu hỏi cần phải đặt ra nếu chúng ta chấp nhận phán quyết của toà xử vụ PvsC và thừa nhận VN có thể phải "trả lại" các LTE VN đang "sở hữu" trong EEZ của nước ngoài. Tiếc là tôi không/chưa thể trả lời chính xác câu hỏi này vì tôi không có danh sách và toạ độ của tất cả các thực thể của VN ở TS, cũng như không có bản đồ/software chuyên ngành để định vị chính xác EEZ của các nước. Dưới đây là một số thông tin tôi "lục lọi" được trên Internet, có thể giúp phỏng đoán phần nào vấn đề nói trên.
Trước hết phải tìm hiểu danh sách các thực thể VN đang chiếm đóng ở TS. Cái này có khá nhiều nguồn, tôi sử dụng một interactive map của Maritime Awareness Project (MAP) thu thập được danh sách 25 thực thể dưới đây xếp theo thứ tự từ Bắc xuống Nam (Tên Việt - Tên Quốc tế - Toạ độ):
1. Đảo Song Tử Tây - Southwest Cay - 11.43/114.33
2. Đá Nam - South Reef - 11.38/114.3
3. Đá Núi Thị - Petly Reef - 10.41/114.58
4. Đảo Sơn Ca - Sand Cay - 10.37/114.48
5.Đảo Nam Yết - Namyit Island - 10.18/114.37
6. Đá Lớn - Discovery Great Reef - 10.05/113.85
7. Đảo Sinh Tồn - Sin Cowe Insland - 9.89/114.33
8. Đá Sinh Tồn Đông - Sin Cowe East Island - 9.87/114.47
9. Đá Len Đao - Lansdowne Reef - 9.78/114.37
10. Đá Cô Lin - Collins Reef - 9.77/114.26
11. Đảo Phan Vinh - Pearson Reef - 8.96/113.68
12. Đảo Trường Sa Đông - Central Reef - 8.93/112.35
13. Đá Tây - West Reef - 8.86/112.22
14. Đá Tiên Nữ - Tennent Reef - 8.86/114.65
15. Đá Đông - East Reef - 8.82/112.60
16. Đá Tốc Tan - Alison Reef - 8.82/113.98
17. Đá Núi Le - Cornwallis South Reef - 8.72/114.18
18. Đá Lát - Ladd Reef - 8.67/111.67
19. Đảo Trường Sa Lớn - Spratly Island - 8.64/111.92
20. Đá Thuyền Chài - Barque Canada Reef - 8.18/113.31
21. Đá Ba Kè - Bombay Castle - 7.96/111.72
22. Đảo An Bang - Amboyna Cay - 7.89/112.92
23. Bãi Phúc Nguyên - Prince Consort Bank - 7.88/110.00
24. Bãi Quế Đường - Grainger Bank - 7.79/110.50
25. Bãi Tư Chính - Vanguard Bank - 7.53/109.72
(http://maritimeawarenessproject.org/interactive-map/)
Một số bản đồ độ phân giải cao khác (của NYT, Cimsec) cũng có thông tin tương tự. Tuy nhiên bản đồ của AMTI và của Quĩ Nguyễn Thái Học có thêm một số thực thể khác của VN (nhưng không có toạ độ):
26. Đá Đền Cây Cỏ - Western Reef/Floral Temple Reef
27. Đá Nhỏ - Discovery Small Reef
28. Đá Phúc Sỹ - Higgens Reef
29. Đá Núi Môn - Bittern Reef
30. Đá Núi Cô - Cay Marino
31. Bãi Nguyệt Sương - Stag Shoal
32. Đá Hà Tần - Lizzie Webber Reef
33. Bãi Chim Biển - Owen Shoal
34. Bãi Đất - Orleana Shoal
35. Không rõ tên tiếng Việt - Johnson Patch
36. Bãi Đinh - Kingston Shoal
37. Bãi Huyền Trân - Alexandra Bank
38. Bãi Phúc Tần - Prince of Wales Bank
(https://amti.csis.org/scs-features-map/
http://www.nguyenthaihocfoundation.org/images/lichsuVN/TS-Map-VN-ENG-Final4-13-cop.jpg)
Trên bản đồ của MAP (xem screenshot bên dưới) đường mầu xanh phía trái là ranh giới EEZ của VN, đường mầu cam là của Malaysia, đường mầu vàng của Philippines. Tiếc là MAP chỉ vẽ đường EEZ của Philippines đến sát đảo Ba Bình, nhưng theo bản đồ của Malaysia trong CLCS submission (cùng VN) năm 2009 thì đường mầu vàng sẽ chạy tiếp đến điểm cuối của đường mầu cam cạnh đảo Phan Vinh (Pearson Reef). Như vậy có thể khẳng định các thực thể sau của VN nằm trong EEZ của Philippines:
3. Đá Núi Thị - Petly Reef - 10.41/114.58
4. Đảo Sơn Ca - Sand Cay - 10.37/114.48
5. Đảo Nam Yết - Namyit Island - 10.18/114.37
6. Đá Lớn - Discovery Great Reef - 10.05/113.85
7. Đảo Sinh Tồn - Sin Cowe Insland - 9.89/114.33
8. Đá Sinh Tồn Đông - Sin Cowe East Island - 9.87/114.47
9. Đá Len Đao - Lansdowne Reef - 9.78/114.37
10. Đá Cô Lin - Collins Reef - 9.77/114.26
11. Đảo Phan Vinh - Pearson Reef - 8.96/113.68
14. Đá Tiên Nữ - Tennent Reef - 8.86/114.65
16. Đá Tốc Tan - Alison Reef - 8.82/113.98
17. Đá Núi Le - Cornwallis South Reef - 8.72/114.18
Còn 2 thực thể sau trong EEZ của Malaysia:
20. Đá Thuyền Chài - Barque Canada Reef - 8.18/113.31
22. Đảo An Bang - Amboyna Cay - 7.89/112.92
Vấn đề là trong 2 danh sách trên tôi chưa biết cái nào là đá cái nào là LTE. Theo TS Lê Hồng Hiệp số 14 và 16 có thể chỉ là LTE, TS Dương Danh Huy thêm Đá Kiệu Ngựa/Ardasier Reef và Đá Suối Cát/Dallas (hai thực thể này tôi không tìm được trên các bản đồ liệt kê bên trên).
Về các nhà giàn tôi tìm được một bài báo của nhà báo Mai Thanh Hải (Thanh Niên) có danh sách sau:
- Cụm Tư Chính có 5 nhà giàn, đã bị đổ 2 nhà giàn (DK1/1, DK1/5), hiện còn 3 nhà giàn là DK1/11, DK1/12, DK1/14.
- Cụm Phúc Nguyên có 2 nhà giàn, đã bị đổ 1 nhà giàn (DK1/6), hiện còn DK1/15.
- Cụm Phúc Tần có 5 nhà giàn, đã bị đổ 1 nhà giàn (DK1/3), hiện còn DK1/2, DK1/16, DK1/17, DK1/18.
- Cụm Quế Đường có 2 nhà giàn DK1/8 và DK1/19
- Cụm Huyền Trân có 1 nhà giàn DK1/7
- Cụm Ba Kè có 4 nhà giàn, đã bị đổ 1 nhà giàn, hiện còn DK1/9, DK1/20 và DK1/21.
- Điểm bãi cạn Cà Mau có 1 nhà giàn DK1/10.
(http://thanhnien.vn/thoi-su/bat-khuat-nha-gian-501815.html)
Ngoài bãi cạn Cà Mau tôi chưa xác định được vị trí, các cụm còn lại (khu vực Tây-Nam của quần đảo TS) đều nằm ngoài EEZ của cả Malaysia lẫn Philippines. Như vậy các nha giàn trong danh sách trên không bị ảnh hưởng bởi phán quyết của PCA. Tất nhiên VN còn có thể có nhà giàn ở những vị trí khác mà bài báo không liệt kê.
Trên đây là một số thông tin tôi thu thập được trên Internet, độ chính xác có thể không cao nhưng được cái là thông tin public nên không sợ bị qui tội "tiết lộ bí mật quốc gia". Ai có thông tin public nào khác xin tiếp tục bổ xung.
Thursday, July 21, 2016
Cám ơn các anh Dương Danh Huy và Lê Hồng Hiệp đã phản hồi, và cũng xin cám ơn tất cả các anh chị khác đã comment rất...
Cám ơn các anh Dương Danh Huy và Lê Hồng Hiệp đã phản hồi, và cũng xin cám ơn tất cả các anh chị khác đã comment rất "nhiệt tình" trong 2 stt vừa qua của tôi. Thực ra tôi chưa muốn bàn về tác động của phán quyết với VN và VN nên làm gì tiếp khi chưa đọc kỹ bản phán quyết của toà và còn cần tham khảo thêm quan điểm của các chuyên gia luật. Hai stt vừa rồi hơi bị detour ra khỏi việc review bản phán quyết vì có một số bạn bè hỏi quan điểm của tôi.
Cho đến giờ này tôi vẫn cho rằng VN đã từ bỏ EEZ của các đảo HS-TS khi không đưa chúng vào CLCS submissions năm 2009. Tất nhiên tôi có thể sai và chắc chắn không hiểu vấn đề kỹ lưỡng bằng anh Huy và anh Hiệp, nhưng sẽ tiếp tục "cứng đầu" xin phép "agree to disagree" về điểm này. Cũng may dù thế nào đi nữa, sau phán quyết tất cả các thực thể ở TS không có EEZ của toà, VN sẽ không phải "lăn tăn" về vấn đề này nữa. Tôi vẫn cho rằng từ bỏ đòi hỏi EEZ cho các đảo/đá ở TS là một chính sách đúng đắn, khôn ngoan và văn minh (hơn TQ).
Về vấn đề chủ quyền liên quan đến LTE quan điểm của tôi và của đa số các anh chị có lẽ không khác nhau nhiều. Chúng ta đều đồng ý rằng VN sẽ phải "trả lại" các LTE nằm trong EEZ của Philippines (và Malaysia) mà chúng ta đang "quản lý" nếu có. Tôi cũng cho đây là một việc đúng đắn, khôn ngoan và văn minh. Ngoài việc sử dụng các LTE này làm "bargaining chips" với Philippines để đổi lấy quyền đánh cá cho ngư dân hay các quyền lợi khác như anh Ca Vu Thanh nói, tôi nhìn nhận vấn đề này sẽ có một lợi ích to lớn hơn nhiều. Nhưng xin phép chưa bàn về lợi ích này ở đây, tôi còn phải chuẩn bị thúng/sọt để còn có chỗ đựng "gạch/đá" đã :-)
Cho đến giờ này tôi vẫn cho rằng VN đã từ bỏ EEZ của các đảo HS-TS khi không đưa chúng vào CLCS submissions năm 2009. Tất nhiên tôi có thể sai và chắc chắn không hiểu vấn đề kỹ lưỡng bằng anh Huy và anh Hiệp, nhưng sẽ tiếp tục "cứng đầu" xin phép "agree to disagree" về điểm này. Cũng may dù thế nào đi nữa, sau phán quyết tất cả các thực thể ở TS không có EEZ của toà, VN sẽ không phải "lăn tăn" về vấn đề này nữa. Tôi vẫn cho rằng từ bỏ đòi hỏi EEZ cho các đảo/đá ở TS là một chính sách đúng đắn, khôn ngoan và văn minh (hơn TQ).
Về vấn đề chủ quyền liên quan đến LTE quan điểm của tôi và của đa số các anh chị có lẽ không khác nhau nhiều. Chúng ta đều đồng ý rằng VN sẽ phải "trả lại" các LTE nằm trong EEZ của Philippines (và Malaysia) mà chúng ta đang "quản lý" nếu có. Tôi cũng cho đây là một việc đúng đắn, khôn ngoan và văn minh. Ngoài việc sử dụng các LTE này làm "bargaining chips" với Philippines để đổi lấy quyền đánh cá cho ngư dân hay các quyền lợi khác như anh Ca Vu Thanh nói, tôi nhìn nhận vấn đề này sẽ có một lợi ích to lớn hơn nhiều. Nhưng xin phép chưa bàn về lợi ích này ở đây, tôi còn phải chuẩn bị thúng/sọt để còn có chỗ đựng "gạch/đá" đã :-)
Wednesday, July 20, 2016
Bài này của TS Lê Hồng Hiệp cũng cho rằng phạm vi đánh cá của ngư dân sẽ bị thu hẹp lại vì từ nay trở đi ngư dân sẽ...
Bài này của TS Lê Hồng Hiệp cũng cho rằng phạm vi đánh cá của ngư dân sẽ bị thu hẹp lại vì từ nay trở đi ngư dân sẽ không được vào vùng biển TS nằm trong EEZ của Philippines nữa. Như đã nói trong stt trước, thực ra điều này đã là hiện thực từ năm 2009 khi VN từ bỏ EEZ đối với các đảo ở HS-TS trong CLCS Submission. Thực tế ngư dân có vào đó đánh cá không là chuyện khác và còn liên quan đến historical fishing right.
TS Hiệp viết:
"Theo UNCLOS, các thực thể này [LTE] không phải là đối tượng của các tuyên bố chủ quyền, và Philippines có quyền chủ quyền đối với chúng."
cũng không hoàn toàn chính xác. Lưu ý UNCLOS không đề cập đến vấn đề chủ quyền dù cho đảo, đá hay LTE. UNCLOS chỉ phân định sea entitlement cho đất liền và các thực thể trên biển (i.e. territorial sea, contiguous zone, EEZ, continental shelf). LTE không được gì cả theo UNCLOS nên nếu nó nằm trong EEZ của một quốc gia thì những quốc gia khác không được có các hoạt động cố định ở đó (đi ngang qua thì được - nguyên tắc freedom of navigation). Cho nên TS Hiệp nói đúng là Philippines có thể đòi hỏi VN phải "trả lại" các LTE mà VN đang chiếm đóng nếu các LTE đó nằm trong EEZ của Philippines và xa hơn 12 hải lý đến các đảo/đá của VN. "Trả lại" ở đây có nghĩa là VN không được đồn trú quân hay xây dựng các công trình kiên cố (vd nhà giàn) trên các LTE đó. Điều này cũng tương tự như VN không cho TQ hạ đặt giàn khoan HD-981 trên EEZ của VN.
http://nghiencuuquocte.org/2016/07/19/phan-quyet-bien-dong-loi-va-hai-doi-voi-viet-nam/
http://nghiencuuquocte.org/2016/07/19/phan-quyet-bien-dong-loi-va-hai-doi-voi-viet-nam
TS Hiệp viết:
"Theo UNCLOS, các thực thể này [LTE] không phải là đối tượng của các tuyên bố chủ quyền, và Philippines có quyền chủ quyền đối với chúng."
cũng không hoàn toàn chính xác. Lưu ý UNCLOS không đề cập đến vấn đề chủ quyền dù cho đảo, đá hay LTE. UNCLOS chỉ phân định sea entitlement cho đất liền và các thực thể trên biển (i.e. territorial sea, contiguous zone, EEZ, continental shelf). LTE không được gì cả theo UNCLOS nên nếu nó nằm trong EEZ của một quốc gia thì những quốc gia khác không được có các hoạt động cố định ở đó (đi ngang qua thì được - nguyên tắc freedom of navigation). Cho nên TS Hiệp nói đúng là Philippines có thể đòi hỏi VN phải "trả lại" các LTE mà VN đang chiếm đóng nếu các LTE đó nằm trong EEZ của Philippines và xa hơn 12 hải lý đến các đảo/đá của VN. "Trả lại" ở đây có nghĩa là VN không được đồn trú quân hay xây dựng các công trình kiên cố (vd nhà giàn) trên các LTE đó. Điều này cũng tương tự như VN không cho TQ hạ đặt giàn khoan HD-981 trên EEZ của VN.
http://nghiencuuquocte.org/2016/07/19/phan-quyet-bien-dong-loi-va-hai-doi-voi-viet-nam/
http://nghiencuuquocte.org/2016/07/19/phan-quyet-bien-dong-loi-va-hai-doi-voi-viet-nam
Không thể không đồng ý với bác Pham Quang Tuan: TS Dương Danh Huy là chuyên gia người Việt hàng đầu về các tranh...
Không thể không đồng ý với bác Pham Quang Tuan: TS Dương Danh Huy là chuyên gia người Việt hàng đầu về các tranh chấp ở Biển Đông, ít nhất trong số tất cả các chuyên gia người Việt (cả trong nước lẫn ngoài nước) mà tôi được biết. Tuy nhiên tôi rất thắc mắc tại sao trong bài này TS Huy lại cho rằng VN chưa quyết định về việc các đảo ở TS có EEZ hay không.
Tôi cho rằng khi VN (cùng với Malaysia) nộp hồ sơ thềm lục địa cho CLCS năm 2009 hoàn toàn không có EEZ đối với HS-TS thì có nghĩa VN đã chính thức từ bỏ đòi hỏi EEZ ở những khu vực này rồi. Bởi vậy khi toà phán quyết tất cả các thực thể ở TS không có EEZ thì điều đó không có gì xấu thêm cho VN. Nếu không có vụ kiện này những gì TS Huy lo ngại (ngư dân VN không được đánh cá ở khu vực TS nằm trong EEZ của Philippines hay thậm chí họ sẽ giành thêm quyền lợi của VN ở những LTE trong EEZ của họ) thực ra đã là rủi ro từ năm 2009 và VN đã chấp nhận những rủi ro này.
Tôi cũng cho rằng thông tin của TS Dương Danh Huy về việc Philippines không phản đối đường 9 đoạn của TQ năm 2009 có lẽ không chính xác. Nếu bản đồ đường 9 đoạn đó nằm trong Note Verbale của TQ gửi phản đối CLCS Joint Submission của VN và Malaysia thì thực tế sau cái Note đó của TQ (ngày 7/5/2009) VN, Malaysian, Indonesia và Philippines đều có phản hồi. Note Verbale của Philippines (ngày 5/4/2011) nêu rõ đường 9 đoạn trên bản đồ kèm theo Note của TQ năm 2009 không phù hợp với UNCLOS. Tất cả các tài liệu liên quan đến Joint Submission của VN và Malaysia năm 2009 và các Notes Verbales liên quan có thể xem ở đây:
http://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/07/160719_forum_scs_duong_danh_huy_china_philippines_ruling
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/07/160719_forum_scs_duong_danh_huy_china_philippines_ruling
Tôi cho rằng khi VN (cùng với Malaysia) nộp hồ sơ thềm lục địa cho CLCS năm 2009 hoàn toàn không có EEZ đối với HS-TS thì có nghĩa VN đã chính thức từ bỏ đòi hỏi EEZ ở những khu vực này rồi. Bởi vậy khi toà phán quyết tất cả các thực thể ở TS không có EEZ thì điều đó không có gì xấu thêm cho VN. Nếu không có vụ kiện này những gì TS Huy lo ngại (ngư dân VN không được đánh cá ở khu vực TS nằm trong EEZ của Philippines hay thậm chí họ sẽ giành thêm quyền lợi của VN ở những LTE trong EEZ của họ) thực ra đã là rủi ro từ năm 2009 và VN đã chấp nhận những rủi ro này.
Tôi cũng cho rằng thông tin của TS Dương Danh Huy về việc Philippines không phản đối đường 9 đoạn của TQ năm 2009 có lẽ không chính xác. Nếu bản đồ đường 9 đoạn đó nằm trong Note Verbale của TQ gửi phản đối CLCS Joint Submission của VN và Malaysia thì thực tế sau cái Note đó của TQ (ngày 7/5/2009) VN, Malaysian, Indonesia và Philippines đều có phản hồi. Note Verbale của Philippines (ngày 5/4/2011) nêu rõ đường 9 đoạn trên bản đồ kèm theo Note của TQ năm 2009 không phù hợp với UNCLOS. Tất cả các tài liệu liên quan đến Joint Submission của VN và Malaysia năm 2009 và các Notes Verbales liên quan có thể xem ở đây:
http://www.un.org/depts/los/clcs_new/submissions_files/submission_mysvnm_33_2009.htm
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/07/160719_forum_scs_duong_danh_huy_china_philippines_ruling
http://www.bbc.com/vietnamese/forum/2016/07/160719_forum_scs_duong_danh_huy_china_philippines_ruling
Tuesday, July 19, 2016
Tạm detour khỏi chủ đề PvsC để giới thiệu bài này của Paul Krugman giải thích hiện tượng thị trường chứng khoán thế...
Tạm detour khỏi chủ đề PvsC để giới thiệu bài này của Paul Krugman giải thích hiện tượng thị trường chứng khoán thế giới gia tăng ào ạt bắt chấp viễn cảnh kinh tế không mấy sáng sủa (tình cờ tôi đang ngồi làm equity modelling).
Theo Krugman có 3 lý do chính: (i) lợi nhuận của doanh nghiệp (Mỹ) không còn phản ánh thu nhập thực của nền kinh tế (Mỹ), (ii) lãi suất thấp, thậm chí âm ở một số thời hạn, một số nước, (iii) doanh nghiệp giữ cash chứ không đầu tư vì 2 lý do: không có nhiều cơ hội đầu tư và không cần đầu tư vẫn giữ được lợi nhuận cao bởi lợi thế cạnh tranh.
(iii): Quả thực những công ty lớn như Apple, Google, FB không còn nhiều cơ hội đầu tư nên họ giữ một lượng cash rất lớn (làm tăng valuation của cổ phiếu) chủ yếu cho M&A. Nhưng những công ty này vẫn tiếp tục có lợi nhuận chủ yếu vì có market power, hoặc do brand, network effect, monopoly chứ không phải vì họ đầu tư nhiều vì triển vọng tăng trưởng tốt.
(i): Vấn đề là dù lợi nhuận của giới doanh nghiệp cao nhưng income share trong GDP giảm nên thực ra chiếc bánh không to ra mà phần doanh nghiệp được hưởng lớn lên trong khi phần của người lao động teo lại. Vấn đề income inequality sẽ làm đau đầu các policy makers nhưng cũng gây khó khăn cho những người làm equity modelling.
(ii): Đây là textbook case. Lãi suất thấp tương đương discount factor thấp, dẫn đến DCF của doanh nghiệp cao. Lập luận của Krugman về các cơ hội đầu tư khác thực ra không cần thiết.
Tóm lại việc thị trường chứng khoán nhiều nước liên tục lập đỉnh không phải là tin tốt cho các nền kinh tế.
http://www.nytimes.com/2016/07/15/opinion/bull-market-blues.html
http://www.nytimes.com/2016/07/15/opinion/bull-market-blues.html
Theo Krugman có 3 lý do chính: (i) lợi nhuận của doanh nghiệp (Mỹ) không còn phản ánh thu nhập thực của nền kinh tế (Mỹ), (ii) lãi suất thấp, thậm chí âm ở một số thời hạn, một số nước, (iii) doanh nghiệp giữ cash chứ không đầu tư vì 2 lý do: không có nhiều cơ hội đầu tư và không cần đầu tư vẫn giữ được lợi nhuận cao bởi lợi thế cạnh tranh.
(iii): Quả thực những công ty lớn như Apple, Google, FB không còn nhiều cơ hội đầu tư nên họ giữ một lượng cash rất lớn (làm tăng valuation của cổ phiếu) chủ yếu cho M&A. Nhưng những công ty này vẫn tiếp tục có lợi nhuận chủ yếu vì có market power, hoặc do brand, network effect, monopoly chứ không phải vì họ đầu tư nhiều vì triển vọng tăng trưởng tốt.
(i): Vấn đề là dù lợi nhuận của giới doanh nghiệp cao nhưng income share trong GDP giảm nên thực ra chiếc bánh không to ra mà phần doanh nghiệp được hưởng lớn lên trong khi phần của người lao động teo lại. Vấn đề income inequality sẽ làm đau đầu các policy makers nhưng cũng gây khó khăn cho những người làm equity modelling.
(ii): Đây là textbook case. Lãi suất thấp tương đương discount factor thấp, dẫn đến DCF của doanh nghiệp cao. Lập luận của Krugman về các cơ hội đầu tư khác thực ra không cần thiết.
Tóm lại việc thị trường chứng khoán nhiều nước liên tục lập đỉnh không phải là tin tốt cho các nền kinh tế.
http://www.nytimes.com/2016/07/15/opinion/bull-market-blues.html
http://www.nytimes.com/2016/07/15/opinion/bull-market-blues.html
Trong vụ xử PvsC ngoài 5 thẩm phán của phiên toà, một nhân vật thứ sáu có vai trò rất quan trọng liên quan đến nhiều...
Trong vụ xử PvsC ngoài 5 thẩm phán của phiên toà, một nhân vật thứ sáu có vai trò rất quan trọng liên quan đến nhiều phán quyết của toà là một expert hydrographer (chuyên gia hải trắc học?). Chuyên gia này là người tư vấn cho các thẩm phán những kiến thức địa lý liên quan đến biển đảo, là những đầu vào quan trọng cho việc phân biệt LTE/rock/island.
Vì tầm quan trọng của chuyên gia này nên qui trình lựa chọn chuyên gia được làm rất thận trọng, phải tìm được người có chuyên môn giỏi và không thiên vị bên nào. Để đảm bảo điều này toà đã phải hỏi ý kiến hai bên về các tiêu chuẩn lựa chọn rồi lên một danh sách các ứng cử viên đủ điều kiện để chọn ra một người. Philippines ủng hộ lựa chọn của toà còn TQ im lặng vì đã tuyên bố không tham gia phiên toà.
Khi thấy lựa chọn của toà là một người Úc tôi đã nghĩ ông này chắc bênh Philippines vì Úc là quốc gia phản ứng khá mạnh với đòi hỏi đường 9 đoạn của TQ. Nhưng hoá ra không phải vậy, đọc những phần phán quyết có liên quan đến hydrography mới thấy vị chuyên gia này rất công bằng, nếu không muốn nói là đã đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe hơn cho phía Philippines.
Cụ thể Điều 121(1) định nghĩa LTE là những thực thể bị chìm hoàn toàn khi thuỷ triều cao (high tide). Vấn đề là thuật ngữ "high tide" dù được sử dụng chính thức trong văn bản UNCLOS nhưng không phải là thuật ngữ khoa học. Đúng ra có 4 thuật ngữ chuyên môn liên quan đến "high tide": (i) Mean High Water, (ii) Mean Higher High Water, (iii) Mean High Water Springs, (iv) Highest Astronomical Tide [P. 313]. Các khái niệm này tương đương với mức thuỷ triều cao tăng dần, nghĩa là một mỏm đá có thể bị chìm với (iv) nhưng lại nổi với (ii). Toà (với tư vấn của expert hydrographer) cho rằng phải chọn (iii) theo tiêu chuẩn TQ. Với một thuật ngữ khác là "tide range" tài liệu của TQ cũng được toà sử dụng vì cho rằng đủ độ tin cậy [P. 318].
Với nhưng tiêu chuẩn/thông tin của TQ nói trên toà đã bác các không ảnh EOMAP do Philippines trưng ra làm bằng chứng một số thực thể ở TS là LTE vì bị chìm khi thuỷ triều cao. Cụ thể những bức ảnh cho thấy các thực thể bị chìm dưới nước sử dụng high-tide là Highest Astronomical Tide, cao hơn mức Mean High Water Springs của TQ. Các mô hình mô phỏng cho các dạng high-tide khác nếu sử dụng số liệu tide range của TQ có độ biến động cao sẽ cho kết quả không chính xác [P. 324]. Không ảnh Landsat bị toà bác vì độ phân giải quá thấp [P. 322], còn không ảnh Worldview có độ phân giải cao hơn nhưng lại chỉ được chụp cho các thực thể là rock chứ không phải LTE [P. 323]. Tóm lại toà không chấp nhận các không ảnh do Philippines đưa làm bằng chứng mà đòi hỏi thêm các bằng chứng khác [P. 326].
Bên cạnh các không ảnh Philippines trưng ra một loạt các bản đồ hàng hải để chứng mình cho quan điểm của mình. Nhưng toà vẫn bác vì cho rằng các bản đồ có thể không chính xác, cần phải căn cứ vào số liệu gốc của các cuộc khảo sát hàng hải tại thực địa [P. 331]. Do đó toà đã tự mình tìm kiếm từ văn khố của Anh số liệu gốc các cuộc khảo sát của hải quân Anh và Nhật cuối thế kỷ 19/đầu thế kỷ 20. Toà cũng dựa rất nhiều phân tích và kết luận vào bản đồ hàng hải và hoa tiêu của TQ.
Cắn cứ vào những thông tin đó toà xem xét và ra phán quyết về đặc tính LTE vs rock của các thực thể trong quần đảo TS. Hầu hết kết luận của toà trùng với quan điểm của Philippines, trừ McKennan Reef bị cho là rock (chứ không phải LTE như Philippines đòi hỏi trong Submission 6) vì toà dựa vào một bản đồ hàng hải của TQ [P. 353] và Gaven Reef (North) cũng là rock dựa vào số liệu khảo sát của Nhât [P. 365]. Đây là 2 điểm duy nhất trong số 15 Submissions mà Philippines bị "thua" trong phiên toà. Nhưng nó cũng cho thấy dù expert hydrographer là người Úc nhưng ông ta đã không thiên vị Philippines.
Vì tầm quan trọng của chuyên gia này nên qui trình lựa chọn chuyên gia được làm rất thận trọng, phải tìm được người có chuyên môn giỏi và không thiên vị bên nào. Để đảm bảo điều này toà đã phải hỏi ý kiến hai bên về các tiêu chuẩn lựa chọn rồi lên một danh sách các ứng cử viên đủ điều kiện để chọn ra một người. Philippines ủng hộ lựa chọn của toà còn TQ im lặng vì đã tuyên bố không tham gia phiên toà.
Khi thấy lựa chọn của toà là một người Úc tôi đã nghĩ ông này chắc bênh Philippines vì Úc là quốc gia phản ứng khá mạnh với đòi hỏi đường 9 đoạn của TQ. Nhưng hoá ra không phải vậy, đọc những phần phán quyết có liên quan đến hydrography mới thấy vị chuyên gia này rất công bằng, nếu không muốn nói là đã đưa ra những tiêu chuẩn khắt khe hơn cho phía Philippines.
Cụ thể Điều 121(1) định nghĩa LTE là những thực thể bị chìm hoàn toàn khi thuỷ triều cao (high tide). Vấn đề là thuật ngữ "high tide" dù được sử dụng chính thức trong văn bản UNCLOS nhưng không phải là thuật ngữ khoa học. Đúng ra có 4 thuật ngữ chuyên môn liên quan đến "high tide": (i) Mean High Water, (ii) Mean Higher High Water, (iii) Mean High Water Springs, (iv) Highest Astronomical Tide [P. 313]. Các khái niệm này tương đương với mức thuỷ triều cao tăng dần, nghĩa là một mỏm đá có thể bị chìm với (iv) nhưng lại nổi với (ii). Toà (với tư vấn của expert hydrographer) cho rằng phải chọn (iii) theo tiêu chuẩn TQ. Với một thuật ngữ khác là "tide range" tài liệu của TQ cũng được toà sử dụng vì cho rằng đủ độ tin cậy [P. 318].
Với nhưng tiêu chuẩn/thông tin của TQ nói trên toà đã bác các không ảnh EOMAP do Philippines trưng ra làm bằng chứng một số thực thể ở TS là LTE vì bị chìm khi thuỷ triều cao. Cụ thể những bức ảnh cho thấy các thực thể bị chìm dưới nước sử dụng high-tide là Highest Astronomical Tide, cao hơn mức Mean High Water Springs của TQ. Các mô hình mô phỏng cho các dạng high-tide khác nếu sử dụng số liệu tide range của TQ có độ biến động cao sẽ cho kết quả không chính xác [P. 324]. Không ảnh Landsat bị toà bác vì độ phân giải quá thấp [P. 322], còn không ảnh Worldview có độ phân giải cao hơn nhưng lại chỉ được chụp cho các thực thể là rock chứ không phải LTE [P. 323]. Tóm lại toà không chấp nhận các không ảnh do Philippines đưa làm bằng chứng mà đòi hỏi thêm các bằng chứng khác [P. 326].
Bên cạnh các không ảnh Philippines trưng ra một loạt các bản đồ hàng hải để chứng mình cho quan điểm của mình. Nhưng toà vẫn bác vì cho rằng các bản đồ có thể không chính xác, cần phải căn cứ vào số liệu gốc của các cuộc khảo sát hàng hải tại thực địa [P. 331]. Do đó toà đã tự mình tìm kiếm từ văn khố của Anh số liệu gốc các cuộc khảo sát của hải quân Anh và Nhật cuối thế kỷ 19/đầu thế kỷ 20. Toà cũng dựa rất nhiều phân tích và kết luận vào bản đồ hàng hải và hoa tiêu của TQ.
Cắn cứ vào những thông tin đó toà xem xét và ra phán quyết về đặc tính LTE vs rock của các thực thể trong quần đảo TS. Hầu hết kết luận của toà trùng với quan điểm của Philippines, trừ McKennan Reef bị cho là rock (chứ không phải LTE như Philippines đòi hỏi trong Submission 6) vì toà dựa vào một bản đồ hàng hải của TQ [P. 353] và Gaven Reef (North) cũng là rock dựa vào số liệu khảo sát của Nhât [P. 365]. Đây là 2 điểm duy nhất trong số 15 Submissions mà Philippines bị "thua" trong phiên toà. Nhưng nó cũng cho thấy dù expert hydrographer là người Úc nhưng ông ta đã không thiên vị Philippines.
Monday, July 18, 2016
Cám ơn bạn Huan Tran đã giới thiệu bài báo này đăng trên một tờ báo của Philippines.
Cám ơn bạn Huan Tran đã giới thiệu bài báo này đăng trên một tờ báo của Philippines. Tôi không rõ ranking của tờ Inquirer trong làng báo Philippines thế nào nhưng trong suốt quá trình xử kiện từ năm 2013 những thông tin từ Philippines tôi đọc được từ Inquirer có vẻ chính xác hơn một vài nguồn khác.
Bài báo hé lộ thông tin nội bộ Philippines khi chuẩn bị hồ sơ kiện đã phải cân nhắc rất khó khăn có nên đưa Ba Bình vào vụ kiện hay không. Cuối cùng họ đã không đưa Ba Bình vào hồ sơ khởi kiện ban đầu (tháng 1/2013). Tuy nhiên họ vẫn viết về Ba Bình trong bản Memorial ngày 30/3/2014, là văn bản chi tiết các lập luận và quan điểm của họ về các điểm khởi kiện.
Nhưng Ba Bình chỉ được Philippines đưa vào Memorial với tư cách một bằng chứng nhỏ (mere mention). Các điểm khởi kiện được liệt kê trong 15 Submissions vẫn không đề cập đến Ba Bình, tất nhiên không yêu cầu toà phán quyết về đặc tính (status) của đảo này. Tuy nhiên như tôi đã giải thích trong stt trước, chính PCA đã quyết định ra phán quyết về Ba Bình (và các thực thể lớn khác ở TS bao gồm cả Trường Sa Lớn và Song Tử Tây của VN) vì đó là điều kiện tiên quyết để giải quyết Submission 5. Bài báo của Inquirer viết:
"But it’s the tribunal, not the [Philippines, that raised it as a feature whose status must be clarified]...”
Như vậy bài báo này xác nhận nhận định của tôi trong stt trước, đó có lẽ là một nước cờ cực kỳ khôn ngoan của team Philippines. Họ đã cài Submission 5 vào để gián tiếp buộc toà phải xem xét và ra phán quyết về Ba Bình. Họ không yêu cầu toà làm việc này trực tiếp vì có nhiều rủi ro về mặt chính trị. Nếu toà kết luận ngược lại (tức là Ba Bình là đảo chứ không phải đá) thì TQ sẽ lấn tới đưa tàu vào sát Palawan và họ sẽ không thể ăn nói với dân chúng Philippines. Ngay cả quyết định "gài" Ba Bình vào Memorial dưới dạng "mere mention" cũng phải được chính tổng thống Aquino duyệt.
Trong đêm toà ra phán quyết, team Philippines "mất ngủ" vì lo sẽ thua về status của Ba Bình. Nhưng cuối cùng họ đã thở phào, và VN cũng vậy.
http://globalnation.inquirer.net/141362/itu-aba-ph-biggest-worry-is-biggest-win
http://globalnation.inquirer.net/141362/itu-aba-ph-biggest-worry-is-biggest-win
Bài báo hé lộ thông tin nội bộ Philippines khi chuẩn bị hồ sơ kiện đã phải cân nhắc rất khó khăn có nên đưa Ba Bình vào vụ kiện hay không. Cuối cùng họ đã không đưa Ba Bình vào hồ sơ khởi kiện ban đầu (tháng 1/2013). Tuy nhiên họ vẫn viết về Ba Bình trong bản Memorial ngày 30/3/2014, là văn bản chi tiết các lập luận và quan điểm của họ về các điểm khởi kiện.
Nhưng Ba Bình chỉ được Philippines đưa vào Memorial với tư cách một bằng chứng nhỏ (mere mention). Các điểm khởi kiện được liệt kê trong 15 Submissions vẫn không đề cập đến Ba Bình, tất nhiên không yêu cầu toà phán quyết về đặc tính (status) của đảo này. Tuy nhiên như tôi đã giải thích trong stt trước, chính PCA đã quyết định ra phán quyết về Ba Bình (và các thực thể lớn khác ở TS bao gồm cả Trường Sa Lớn và Song Tử Tây của VN) vì đó là điều kiện tiên quyết để giải quyết Submission 5. Bài báo của Inquirer viết:
"But it’s the tribunal, not the [Philippines, that raised it as a feature whose status must be clarified]...”
Như vậy bài báo này xác nhận nhận định của tôi trong stt trước, đó có lẽ là một nước cờ cực kỳ khôn ngoan của team Philippines. Họ đã cài Submission 5 vào để gián tiếp buộc toà phải xem xét và ra phán quyết về Ba Bình. Họ không yêu cầu toà làm việc này trực tiếp vì có nhiều rủi ro về mặt chính trị. Nếu toà kết luận ngược lại (tức là Ba Bình là đảo chứ không phải đá) thì TQ sẽ lấn tới đưa tàu vào sát Palawan và họ sẽ không thể ăn nói với dân chúng Philippines. Ngay cả quyết định "gài" Ba Bình vào Memorial dưới dạng "mere mention" cũng phải được chính tổng thống Aquino duyệt.
Trong đêm toà ra phán quyết, team Philippines "mất ngủ" vì lo sẽ thua về status của Ba Bình. Nhưng cuối cùng họ đã thở phào, và VN cũng vậy.
http://globalnation.inquirer.net/141362/itu-aba-ph-biggest-worry-is-biggest-win
http://globalnation.inquirer.net/141362/itu-aba-ph-biggest-worry-is-biggest-win
Saturday, July 16, 2016
Khi toà ra phán quyết cuối cùng ngày 12/7/2016 kết luận đường 9 đoạn của TQ trái với qui định của UNCLOS, đa số dư...
Khi toà ra phán quyết cuối cùng ngày 12/7/2016 kết luận đường 9 đoạn của TQ trái với qui định của UNCLOS, đa số dư luận quốc tế hoan nghênh nhưng đó là điều đã được nhiều chuyên gia dự đoán trước. Ngược lại phán quyết về việc không một thực thể nào trong quần đảo TS có EEZ, kể cả Ba Bình, là một điều khá bất ngờ với nhiều người. Không chỉ cá nhân tôi mà một số nhà bình luận thắc mắc tại sao Philippines không hề đả động gì đến Ba Bình trong các submissions mà toà vẫn xem xét đến đặc tính pháp lý của đảo này. Bởi vậy khi bắt tay vào đọc 500 trang phán quyết tôi "nhảy cóc" ngay đến Chương 4 để tìm hiểu lý do tại sao, hoá ra mọi thứ đều có lý của nó.
Trước hết xin nhắc lại một số vấn đề liên quan đến vụ xử cho những ai chưa biết (bạn nào muốn tìm hiểu kỹ hơn có thể đọc lại một bài tôi viết trên blog từ năm 2014 - link bên dưới). Theo Điều 298 các quốc gia đã phê chuẩn UNCLOS có quyền opt-out (miễn trừ/không tuân thủ) Điều 287, là điều khoản qui định qui chế giải quyết tranh chấp bắt buộc giữa các thành viên. Nhưng Điều 298 chỉ cho phép opt-out khỏi một số loại tranh chấp chứ không phải tất cả, một trong số đó là những tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới trên biển.
TQ (giống nhiều quốc gia lớn) đã tuyên bố opt-out và họ dựa vào đây để cho rằng toà không có jurisdiction phân xử những gì Philippines đệ trình vì liên quan đến ranh giới biển. Ngoài ra TQ cũng lập luận vấn đề chủ quyền trên các đảo nằm ngoài phạm vi UNCLOS, cho nên phải để TQ và các nước liên quan giải quyết xong (qua con đường đàm phán song phương) các tranh chấp chủ quyền rồi toà mới có thể phán quyết về đặc tính (LTE vs Rock vs Island) của các đảo. Một lập luận nữa của TQ là Philippines (và các nước ASEAN khác) đã ký DOC với họ năm 2002, trong đó qui định sẽ giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng con đường đám phán.
Ngày 23/10/2015 PCA ra phán quyết về jurisdiction trong đó phủ nhận lập luận thứ hai của TQ (phải giải quyết chủ quyền trên đảo trước). Toà cho rằng vấn đề chủ quyền và phán quyết về tính chất của các đảo không liên quan đến nhau, thậm chí nếu giả sử TQ có chủ quyền trên tất cả các đảo thì Philippines vẫn có thể kiện để xác định đặc tính của các đảo để từ đó xem xét liệu TQ có EEZ ở vùng biển TS hay không [P. 154]. Lập luận thứ ba của TQ (về DOC) cũng bị toà bác bỏ. Toà cho rằng DOC chỉ là cam kết chính trị chứ không phải ràng buộc pháp lý, do đó Philippines không bắt buộc phải giải quyết hết các tranh chấp thông qua DOC rồi mới được kiện theo UNCLOS [P. 159].
Riêng về lập luận thứ nhất liên quan đến tình trạng opt-out của TQ theo Điều 298, toà không thể đưa ra kết luận cuối cùng trong phán quyết về jurisdiction tháng 10/2015 đối với các submission 1, 2, 5, 8... Cụ thể trong Submission 5 Philippines yêu cầu toà tuyên bố Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và Bãi Cỏ May (Second Thomas Shoal) có nằm trong EEZ của Philippines hay không. TQ hiện đang chiếm đóng Đá Vành Khăn còn Bãi Cỏ May do Philippines quản lý nhưng đang có nguy cơ bị TQ chiếm mất. Vì cả hai thực thể này đều là LTE (không có EEZ lẫn 12 hải lý territorial sea) nên nếu toà tuyên bố chúng nằm trong EEZ của Philippines thì về mặt pháp lý mọi hoạt động của TQ ở 2 thực thể này đều phạm pháp [P. 395].
Nhưng để khẳng định 2 LTE nói trên nằm trong EEZ của Philippines thì cần một điều kiện bắt buộc là không một thực thể nào khác trong quần đảo TS có EEZ kể cả Ba Bình. Nếu không sẽ có sự chồng lấn EEZ của các đảo với EEZ của Philippines tính từ đất liền. Một khi có sự chồng lấn thì toà phải phán quyết về ranh giới biển, là điềuTQ đã opt-out. Vì vậy dù Philippines không nêu đích danh Ba Bình, Trường Sa Lớn, hay Song Tử Tây trong các submissions nhưng toà vẫn phải xem xét các thực thể này để đảm bảo không có sự chồng lấn về EEZ và cuối cùng toà đã kết luận như vậy [P. 646].
Như vậy chính Submission 5 là lý do toà PCA phải ra phán quyết về đặc tính của Ba Bình (là rock chứ không phải island) làm giới quan sát quốc tế ngạc nhiên và làm TQ/Đài Loan nổi giận (vì TQ và Đài Loan không từ bỏ EEZ của các đảo họ chiếm đóng như VN và Philippines). Trong một stt tới tôi sẽ viết kỹ hơn về quá trình toà xác định Ba Bình không phải là island. Đọc những phần liên quan đến quá trình ra phán quyết này cực kỳ "đau tim", cũng may (cho Philippines và VN) cuối cùng toà đã kết luận như chúng ta đã biết :-)
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/07/philippines-vs-china.html
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/07/philippines-vs-china.html
Trước hết xin nhắc lại một số vấn đề liên quan đến vụ xử cho những ai chưa biết (bạn nào muốn tìm hiểu kỹ hơn có thể đọc lại một bài tôi viết trên blog từ năm 2014 - link bên dưới). Theo Điều 298 các quốc gia đã phê chuẩn UNCLOS có quyền opt-out (miễn trừ/không tuân thủ) Điều 287, là điều khoản qui định qui chế giải quyết tranh chấp bắt buộc giữa các thành viên. Nhưng Điều 298 chỉ cho phép opt-out khỏi một số loại tranh chấp chứ không phải tất cả, một trong số đó là những tranh chấp liên quan đến phân định ranh giới trên biển.
TQ (giống nhiều quốc gia lớn) đã tuyên bố opt-out và họ dựa vào đây để cho rằng toà không có jurisdiction phân xử những gì Philippines đệ trình vì liên quan đến ranh giới biển. Ngoài ra TQ cũng lập luận vấn đề chủ quyền trên các đảo nằm ngoài phạm vi UNCLOS, cho nên phải để TQ và các nước liên quan giải quyết xong (qua con đường đàm phán song phương) các tranh chấp chủ quyền rồi toà mới có thể phán quyết về đặc tính (LTE vs Rock vs Island) của các đảo. Một lập luận nữa của TQ là Philippines (và các nước ASEAN khác) đã ký DOC với họ năm 2002, trong đó qui định sẽ giải quyết các tranh chấp trên Biển Đông bằng con đường đám phán.
Ngày 23/10/2015 PCA ra phán quyết về jurisdiction trong đó phủ nhận lập luận thứ hai của TQ (phải giải quyết chủ quyền trên đảo trước). Toà cho rằng vấn đề chủ quyền và phán quyết về tính chất của các đảo không liên quan đến nhau, thậm chí nếu giả sử TQ có chủ quyền trên tất cả các đảo thì Philippines vẫn có thể kiện để xác định đặc tính của các đảo để từ đó xem xét liệu TQ có EEZ ở vùng biển TS hay không [P. 154]. Lập luận thứ ba của TQ (về DOC) cũng bị toà bác bỏ. Toà cho rằng DOC chỉ là cam kết chính trị chứ không phải ràng buộc pháp lý, do đó Philippines không bắt buộc phải giải quyết hết các tranh chấp thông qua DOC rồi mới được kiện theo UNCLOS [P. 159].
Riêng về lập luận thứ nhất liên quan đến tình trạng opt-out của TQ theo Điều 298, toà không thể đưa ra kết luận cuối cùng trong phán quyết về jurisdiction tháng 10/2015 đối với các submission 1, 2, 5, 8... Cụ thể trong Submission 5 Philippines yêu cầu toà tuyên bố Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và Bãi Cỏ May (Second Thomas Shoal) có nằm trong EEZ của Philippines hay không. TQ hiện đang chiếm đóng Đá Vành Khăn còn Bãi Cỏ May do Philippines quản lý nhưng đang có nguy cơ bị TQ chiếm mất. Vì cả hai thực thể này đều là LTE (không có EEZ lẫn 12 hải lý territorial sea) nên nếu toà tuyên bố chúng nằm trong EEZ của Philippines thì về mặt pháp lý mọi hoạt động của TQ ở 2 thực thể này đều phạm pháp [P. 395].
Nhưng để khẳng định 2 LTE nói trên nằm trong EEZ của Philippines thì cần một điều kiện bắt buộc là không một thực thể nào khác trong quần đảo TS có EEZ kể cả Ba Bình. Nếu không sẽ có sự chồng lấn EEZ của các đảo với EEZ của Philippines tính từ đất liền. Một khi có sự chồng lấn thì toà phải phán quyết về ranh giới biển, là điềuTQ đã opt-out. Vì vậy dù Philippines không nêu đích danh Ba Bình, Trường Sa Lớn, hay Song Tử Tây trong các submissions nhưng toà vẫn phải xem xét các thực thể này để đảm bảo không có sự chồng lấn về EEZ và cuối cùng toà đã kết luận như vậy [P. 646].
Như vậy chính Submission 5 là lý do toà PCA phải ra phán quyết về đặc tính của Ba Bình (là rock chứ không phải island) làm giới quan sát quốc tế ngạc nhiên và làm TQ/Đài Loan nổi giận (vì TQ và Đài Loan không từ bỏ EEZ của các đảo họ chiếm đóng như VN và Philippines). Trong một stt tới tôi sẽ viết kỹ hơn về quá trình toà xác định Ba Bình không phải là island. Đọc những phần liên quan đến quá trình ra phán quyết này cực kỳ "đau tim", cũng may (cho Philippines và VN) cuối cùng toà đã kết luận như chúng ta đã biết :-)
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/07/philippines-vs-china.html
http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2014/07/philippines-vs-china.html
Như đã nói trong các stt trước, VN đã từ bỏ đòi hỏi EEZ cho các đảo/đá mà mình chiếm đóng hoặc tuyên bố chủ quyền...
Như đã nói trong các stt trước, VN đã từ bỏ đòi hỏi EEZ cho các đảo/đá mà mình chiếm đóng hoặc tuyên bố chủ quyền trên quần đảo TS. Điều này giúp cho Philippines thuận lợi hơn trong vụ kiện. Cụ thể Philippines đã viện dẫn điều này trong Paragraph 418 để làm bằng chứng cho thấy các đảo lớn ở TS, bất kể chủ quyền của ai cũng không thể có EEZ theo Điều 121(3). Toà cũng sử dụng bằng chứng này [P. 634] để kết luận tất cả các đảo/đá ở TS, kể cả đảo lớn nhất là Ba Bình, không có EEZ.
Để đạt được thắng lợi này, không kể các bằng chứng khác và sự giúp sức (cố tình hay chỉ trùng hợp) từ VN nói trên, Philippines còn phải chấp nhận tất cả các đảo của mình đang chiếm đóng cũng không có EEZ, bao gồm đảo Thị Tứ (Thitu), đảo Bến Lạc (West York), và Song Tử Đông (Northeast Cay). Cả ba đảo này theo Wikipedia nằm trong Top 6 các đảo có diện tích lớn nhất của TS (Ba Bình lớn nhất, Trường Sa Lớn của VN thứ 4, Song Tử Tây của VN thứ 6). Vì toà chỉ xem xét tính chất đảo vs đá của Top 6 nên khi cả 5 đảo còn lại không có EEZ thì tuyên bố Ba Bình cũng không có EEZ có lẽ dễ dàng hơn cho toà.
Một điểm nữa là dù VN là bên thứ ba đầu tiên và duy nhất xin và được toà cho phép bảo lưu quyền intervention, VN đã không sử dụng quyền này và gây bất kỳ khó dễ nào cho toà. Trong khi đó chỉ vài tuần trước khi toà tuyên bố phán quyết, ngày 23/6/2016 Malaysia gửi 2 Notes Verbales yêu cầu toà phải tránh ra phán quyết có thể gây thiệt hại cho họ [P. 105]. Tất nhiên cả toà và phía Philippines có đủ lập luận để bác bỏ khả năng Malaysia sẽ bị thiệt hại, tuy nhiên bản phán quyết vẫn phải dành 9 paragraph để giải quyết khiếu nại của Malaysia [P.634-642].
Không khó có thể hiểu tại sao VN lại ủng hộ Philippines hết mình và không gây khó dễ gì trong quá trình phân xử. Nhưng đọc lại Submission 6 của Philippines mới thấy dường như Philippines đã có một "hối lộ" nhỏ cho VN. Trong submission này [P. 112] Philippines yêu cầu toà tuyên bố Gaven Reef và McKennan/Hughes Reef (hiện do TQ chiếm đóng) chỉ là low-tide elevation (LTE), không những không có EEZ mà không có cả 12 hải lý territorial sea. Điều đáng nói là Philippines thòng thêm vào khả năng Gaven Reef là một cấu thành của đảo Nam Yết (Namyit) còn McKennan/Hughes của đảo Sinh Tồn (Sin Cowe). Nam Yết và Sinh Tồn là 2 đảo VN đang chiếm đóng, cho nên nếu toà đồng ý với quan điểm của Philippines thì VN là bên có lợi nhất trong Submission này.
Kết quả toà phán quyết Gaven và Hughes là LTE, nhưng McKennan là Rock [P. 382-383]. Toà không nói rõ các LTE này có thuộc về các rock lân cận không (forming baseline) như Philippines "gợi ý" mà chỉ tuyên bố chúng nằm trong 12 hải lý của các rock đó [P. 384]. Nhưng chí ít theo phán quyết này, từ nay trở đi TQ không được quyền gây khó dễ cho các tàu cá VN hoạt động gần các đảo đá Gaven và Hughes mà chúng đang chiếm đóng.
Để đạt được thắng lợi này, không kể các bằng chứng khác và sự giúp sức (cố tình hay chỉ trùng hợp) từ VN nói trên, Philippines còn phải chấp nhận tất cả các đảo của mình đang chiếm đóng cũng không có EEZ, bao gồm đảo Thị Tứ (Thitu), đảo Bến Lạc (West York), và Song Tử Đông (Northeast Cay). Cả ba đảo này theo Wikipedia nằm trong Top 6 các đảo có diện tích lớn nhất của TS (Ba Bình lớn nhất, Trường Sa Lớn của VN thứ 4, Song Tử Tây của VN thứ 6). Vì toà chỉ xem xét tính chất đảo vs đá của Top 6 nên khi cả 5 đảo còn lại không có EEZ thì tuyên bố Ba Bình cũng không có EEZ có lẽ dễ dàng hơn cho toà.
Một điểm nữa là dù VN là bên thứ ba đầu tiên và duy nhất xin và được toà cho phép bảo lưu quyền intervention, VN đã không sử dụng quyền này và gây bất kỳ khó dễ nào cho toà. Trong khi đó chỉ vài tuần trước khi toà tuyên bố phán quyết, ngày 23/6/2016 Malaysia gửi 2 Notes Verbales yêu cầu toà phải tránh ra phán quyết có thể gây thiệt hại cho họ [P. 105]. Tất nhiên cả toà và phía Philippines có đủ lập luận để bác bỏ khả năng Malaysia sẽ bị thiệt hại, tuy nhiên bản phán quyết vẫn phải dành 9 paragraph để giải quyết khiếu nại của Malaysia [P.634-642].
Không khó có thể hiểu tại sao VN lại ủng hộ Philippines hết mình và không gây khó dễ gì trong quá trình phân xử. Nhưng đọc lại Submission 6 của Philippines mới thấy dường như Philippines đã có một "hối lộ" nhỏ cho VN. Trong submission này [P. 112] Philippines yêu cầu toà tuyên bố Gaven Reef và McKennan/Hughes Reef (hiện do TQ chiếm đóng) chỉ là low-tide elevation (LTE), không những không có EEZ mà không có cả 12 hải lý territorial sea. Điều đáng nói là Philippines thòng thêm vào khả năng Gaven Reef là một cấu thành của đảo Nam Yết (Namyit) còn McKennan/Hughes của đảo Sinh Tồn (Sin Cowe). Nam Yết và Sinh Tồn là 2 đảo VN đang chiếm đóng, cho nên nếu toà đồng ý với quan điểm của Philippines thì VN là bên có lợi nhất trong Submission này.
Kết quả toà phán quyết Gaven và Hughes là LTE, nhưng McKennan là Rock [P. 382-383]. Toà không nói rõ các LTE này có thuộc về các rock lân cận không (forming baseline) như Philippines "gợi ý" mà chỉ tuyên bố chúng nằm trong 12 hải lý của các rock đó [P. 384]. Nhưng chí ít theo phán quyết này, từ nay trở đi TQ không được quyền gây khó dễ cho các tàu cá VN hoạt động gần các đảo đá Gaven và Hughes mà chúng đang chiếm đóng.
Thursday, July 14, 2016
Điều 212(3) UNCLOS như sau:
Điều 212(3) UNCLOS như sau:
"Rocks which cannot sustain human habitation or economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf."
Như vậy:
A = "human habitation"
B = "economic life"
C = "(having) exclusive economic zone of continental shelf"
Do đó:
NOT (A OR B) = cannot sustain human habitation or economic life
NOT (C) = no exclusive economic zone or continental shelf
Phía Philippines lập luận rằng vì NOT (A OR B) ==> NOT (C) là double negativity nên về mặt logic khi bỏ NOT đi thì phải thành A AND B ==> C, nghĩa là một đảo đá sẽ có EEZ khi cả 2 điều kiện A và B thỏa mãn [P. 417]. Tòa không chấp nhận cách diễn giải này và cho rằng về mặt logic Điều 121(3) phải được viết rõ thành:
"Rocks which cannot sustain human habitation AND [which cannot sustain] economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf."
Nghĩa là theo De Morgan law: NOT (A OR B) phải triển khai thành NOT A AND NOT B. Một đảo đá chỉ có thể bị mất quyền có EEZ (NOT C) khi cả hai điều kiện A và B bị phủ định [P. 494]. Do vậy về mặt logic nếu chỉ một trong 2 điều kiện A hoặc B thiếu thì đảo đá vẫn có EEZ.
Tuy nhiên như bác Pham Quang Tuan đã chỉ ra trong comment của stt trước, tòa không xem xét điều 121(3) một cách cứng nhắc về mặt logic mà đánh giá lại ý định của những người soạn điều khoản này [P. 495]. Cho nên thực ra Điều 121(3) phải được viết rõ lại thành:
"Rocks which cannot sustain human habitation OR [which cannot sustain] economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf."
đồng nghĩa với kết luận của phía Philippines là đúng, i.e. cần phải có cả 2 điều kiện A và B cùng lúc thì một đảo đá mới có EEZ [P. 496]. Hơn nữa tòa cho rằng (đồng ý với lập luận của Philippines) là human habitation và economic life thường đi đôi với nhau (dù có ngoại lệ), cho nên cần phải hiểu ý định của những người soạn Điều 121(3) là "human habitation" và "economic life" thực ra là một điều kiện. Phía Philippines còn đưa ra một lập luận mạnh hơn nữa về intention của những người soạn Điều 121(3). Theo Philippines ở thời điểm đàm phán điều khoản này các nước thỏa thuận rằng phải đưa ra điều kiện rất khó để một đảo đá có EEZ vì nếu không sẽ xảy ra nhiều tranh chấp trong tương lai. Do vậy cần chấp nhận phương án A AND B ==> C vì nó khó hơn A OR B ==> C.
PS. Không chỉ với Điều 121(3), tòa còn diễn giải lại Điều 13(2) vì điều khoản này cũng không viết rõ ràng [P. 308]. Việc các tòa án diễn giải (interpret) luật để làm rõ nghĩa và tăng tính công bằng cho một bộ luật là một nguyên tắc căn bản của hệ thống tam quyền phân lập. Trong khi đó ở VN hầu hết các bộ luật được cơ quan hành pháp diễn giải thông qua các nghị định, thông tư, hướng dẫn. Điều này dễ dẫn đến việc các bộ luật được diễn giải có lợi nhất cho cơ quan hành pháp thay vì đem lại công bằng cho người dân/doanh nghiệp.
"Rocks which cannot sustain human habitation or economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf."
Như vậy:
A = "human habitation"
B = "economic life"
C = "(having) exclusive economic zone of continental shelf"
Do đó:
NOT (A OR B) = cannot sustain human habitation or economic life
NOT (C) = no exclusive economic zone or continental shelf
Phía Philippines lập luận rằng vì NOT (A OR B) ==> NOT (C) là double negativity nên về mặt logic khi bỏ NOT đi thì phải thành A AND B ==> C, nghĩa là một đảo đá sẽ có EEZ khi cả 2 điều kiện A và B thỏa mãn [P. 417]. Tòa không chấp nhận cách diễn giải này và cho rằng về mặt logic Điều 121(3) phải được viết rõ thành:
"Rocks which cannot sustain human habitation AND [which cannot sustain] economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf."
Nghĩa là theo De Morgan law: NOT (A OR B) phải triển khai thành NOT A AND NOT B. Một đảo đá chỉ có thể bị mất quyền có EEZ (NOT C) khi cả hai điều kiện A và B bị phủ định [P. 494]. Do vậy về mặt logic nếu chỉ một trong 2 điều kiện A hoặc B thiếu thì đảo đá vẫn có EEZ.
Tuy nhiên như bác Pham Quang Tuan đã chỉ ra trong comment của stt trước, tòa không xem xét điều 121(3) một cách cứng nhắc về mặt logic mà đánh giá lại ý định của những người soạn điều khoản này [P. 495]. Cho nên thực ra Điều 121(3) phải được viết rõ lại thành:
"Rocks which cannot sustain human habitation OR [which cannot sustain] economic life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf."
đồng nghĩa với kết luận của phía Philippines là đúng, i.e. cần phải có cả 2 điều kiện A và B cùng lúc thì một đảo đá mới có EEZ [P. 496]. Hơn nữa tòa cho rằng (đồng ý với lập luận của Philippines) là human habitation và economic life thường đi đôi với nhau (dù có ngoại lệ), cho nên cần phải hiểu ý định của những người soạn Điều 121(3) là "human habitation" và "economic life" thực ra là một điều kiện. Phía Philippines còn đưa ra một lập luận mạnh hơn nữa về intention của những người soạn Điều 121(3). Theo Philippines ở thời điểm đàm phán điều khoản này các nước thỏa thuận rằng phải đưa ra điều kiện rất khó để một đảo đá có EEZ vì nếu không sẽ xảy ra nhiều tranh chấp trong tương lai. Do vậy cần chấp nhận phương án A AND B ==> C vì nó khó hơn A OR B ==> C.
PS. Không chỉ với Điều 121(3), tòa còn diễn giải lại Điều 13(2) vì điều khoản này cũng không viết rõ ràng [P. 308]. Việc các tòa án diễn giải (interpret) luật để làm rõ nghĩa và tăng tính công bằng cho một bộ luật là một nguyên tắc căn bản của hệ thống tam quyền phân lập. Trong khi đó ở VN hầu hết các bộ luật được cơ quan hành pháp diễn giải thông qua các nghị định, thông tư, hướng dẫn. Điều này dễ dẫn đến việc các bộ luật được diễn giải có lợi nhất cho cơ quan hành pháp thay vì đem lại công bằng cho người dân/doanh nghiệp.
Trong phiên tranh tụng về vấn đề đảo Ba Bình (Itu Aba) là đá (không có EEZ) hay là đảo (có EEZ) có một bài toán...
Trong phiên tranh tụng về vấn đề đảo Ba Bình (Itu Aba) là đá (không có EEZ) hay là đảo (có EEZ) có một bài toán logic rất thú vị:
Điều 121(3) của UNCLOS có thể viết dưới dạng:
NOT (A OR B) ==> NOT (C)
Philippines cho rằng biểu thức này tương đương với:
A AND B ==> C
Nhưng toà phản bác cho rằng về mặt logic nó phải tương đương:
A OR B ==> C
Mời các bạn giải bài toán logic này xem ai đúng, tôi sẽ phân tích kỹ hơn về Điều 121(3) và giải thích A, B, C là gì trong stt tới.
Điều 121(3) của UNCLOS có thể viết dưới dạng:
NOT (A OR B) ==> NOT (C)
Philippines cho rằng biểu thức này tương đương với:
A AND B ==> C
Nhưng toà phản bác cho rằng về mặt logic nó phải tương đương:
A OR B ==> C
Mời các bạn giải bài toán logic này xem ai đúng, tôi sẽ phân tích kỹ hơn về Điều 121(3) và giải thích A, B, C là gì trong stt tới.
Wednesday, July 13, 2016
VN là bên thứ ba đầu tiên xin được tham dự phiên tòa và tuyên bố giữ quyền được "intervention" vào quá trình xử nếu...
VN là bên thứ ba đầu tiên xin được tham dự phiên tòa và tuyên bố giữ quyền được "intervention" vào quá trình xử nếu thấy cần thiết. Mặc dù TQ không tham dự phiên tòa nhưng đã công bố Position Paper (sau đó được tòa xem xét như là quan điểm chính thức (plea) của TQ trong phiên tòa). Trong Position Paper TQ phản đối 3 điểm liên quan đến qui trình xử: (i) intervention của các bên thứ ba, (ii) amicus curiae submission (thông tin, bằng chứng của các bên thứ ba gửi đến cho tòa), (iii) site visit (đi kiểm tra thực địa).
Một điều thú vị là dù TQ và Đài Loan đứng cùng chiến tuyến trong vụ xử này nhưng Đài Loan lại mời PCA thực hiện "site visit" ở đảo Ba Bình. Nhưng cuối cùng tòa không thực hiện "site visit" với lý do không cần thiết [P. 142], tuy nhiên có người cho rằng tòa không muốn gây thêm căng thẳng với TQ nếu tổ chức đi thực địa tại Ba Bình.
Một điều thú vị là dù TQ và Đài Loan đứng cùng chiến tuyến trong vụ xử này nhưng Đài Loan lại mời PCA thực hiện "site visit" ở đảo Ba Bình. Nhưng cuối cùng tòa không thực hiện "site visit" với lý do không cần thiết [P. 142], tuy nhiên có người cho rằng tòa không muốn gây thêm căng thẳng với TQ nếu tổ chức đi thực địa tại Ba Bình.
Liên quan đến vụ Philippines vs China (PvsC) còn có một cú "gậy ông đập lưng ông" nữa, dù không quan trọng/không có...
Liên quan đến vụ Philippines vs China (PvsC) còn có một cú "gậy ông đập lưng ông" nữa, dù không quan trọng/không có ý nghĩa nhưng cho thấy PCA tuân thủ rất nghiêm ngặt UNCLOS.
Ngoài các nước liên quan trong khu vực (ĐNA) như VN, Indonesia, Japan... đã được tòa cho phép tham gia các phiên tranh tụng với vai trò dự thính, sau khi PCA ấn định ngày tranh tụng Merits, Anh, Úc, Mỹ xin được tham dự sự kiện này. Theo đúng thủ tục tòa hỏi ý kiến hai bên liên quan, Philippines đồng ý còn TQ không phản hồi vì vẫn kiên quyết tẩy chay phiên tòa. Tuy nhiên sau đó tòa chỉ cho phép Anh và Úc tham dự mà khước từ Mỹ. Lý do tòa đưa ra là Mỹ chua phê chuẩn UNCLOS nên không được phép tham dự.
Ngoài các nước liên quan trong khu vực (ĐNA) như VN, Indonesia, Japan... đã được tòa cho phép tham gia các phiên tranh tụng với vai trò dự thính, sau khi PCA ấn định ngày tranh tụng Merits, Anh, Úc, Mỹ xin được tham dự sự kiện này. Theo đúng thủ tục tòa hỏi ý kiến hai bên liên quan, Philippines đồng ý còn TQ không phản hồi vì vẫn kiên quyết tẩy chay phiên tòa. Tuy nhiên sau đó tòa chỉ cho phép Anh và Úc tham dự mà khước từ Mỹ. Lý do tòa đưa ra là Mỹ chua phê chuẩn UNCLOS nên không được phép tham dự.
Tuesday, July 12, 2016
Một điều tôi và rất nhiều người bất ngờ là PCA phán quyết tất cả các đảo ở TS, kể cả Ba Bình (Itu Aba) - đảo tự...
Một điều tôi và rất nhiều người bất ngờ là PCA phán quyết tất cả các đảo ở TS, kể cả Ba Bình (Itu Aba) - đảo tự nhiên lớn nhất do Đài Loan chiếm đóng, không có EEZ. Điều này gây ra một vài ý kiến nghi ngại là VN sẽ mất chủ quyền ở TS. Những nghi ngại này không có cơ sở.
Thứ nhất vấn đề chủ quyền trên đảo nằm ngoài phạm vi UNCLOS và jurisdiction của tòa, bởi vậy phán quyết của PCA không ảnh hưởng gì đến các claim về chủ quyền trên các đảo/đá (nổi).
Thứ hai, như tôi đã viết cách đây 2 năm (link bên dưới), VN đã có một bước đi rất khôn ngoan (và văn minh) từ năm 2009 khi từ bỏ đòi hỏi EEZ cho các đảo ở HS-TS. Việc PCA bác bỏ EEZ của tất cả các đảo ở TS không những phù hợp/khẳng định quan điểm của VN mà còn phủ nhận EEZ claims của tất cả các nước khác, đặc biệt là EEZ đối với Ba Bình.
https://plus.google.com/+GiangLe_KinhTeTaiChinh/posts/fd5c9qkovFi
Thứ nhất vấn đề chủ quyền trên đảo nằm ngoài phạm vi UNCLOS và jurisdiction của tòa, bởi vậy phán quyết của PCA không ảnh hưởng gì đến các claim về chủ quyền trên các đảo/đá (nổi).
Thứ hai, như tôi đã viết cách đây 2 năm (link bên dưới), VN đã có một bước đi rất khôn ngoan (và văn minh) từ năm 2009 khi từ bỏ đòi hỏi EEZ cho các đảo ở HS-TS. Việc PCA bác bỏ EEZ của tất cả các đảo ở TS không những phù hợp/khẳng định quan điểm của VN mà còn phủ nhận EEZ claims của tất cả các nước khác, đặc biệt là EEZ đối với Ba Bình.
https://plus.google.com/+GiangLe_KinhTeTaiChinh/posts/fd5c9qkovFi
Có bạn yêu cầu tôi viết về phán quyết của PCA nhưng tôi cần thời gian đọc kỹ 500 trang tài liệu và các phân tích...
Có bạn yêu cầu tôi viết về phán quyết của PCA nhưng tôi cần thời gian đọc kỹ 500 trang tài liệu và các phân tích liên quan của giới luật gia. Bởi vậy tôi xin khất chủ đề này trong vài ngày tới.
Tuy nhiên có một chi tiết thú vị này không thể không chia sẻ ngay. Số là khi xây dựng các đảo nhân tạo TQ nhiều lần tuyên bố chúng chỉ để cho mục đích dân sự chứ không phải quân sự. Nhưng "gậy ông đập lưng ông", PCA viện dẫn những tuyên bố này của TQ để khẳng định lại jurisdiction của tòa vì nếu các đảo nhân tạo đó được xây cho mục đích quân sự thì sẽ được loại trừ khỏi jurisdiction theo qui định của UNCLOS.
https://www.lawfareblog.com/tribunal-issues-landmark-ruling-south-china-sea-arbitration
https://www.lawfareblog.com/tribunal-issues-landmark-ruling-south-china-sea-arbitration
Tuy nhiên có một chi tiết thú vị này không thể không chia sẻ ngay. Số là khi xây dựng các đảo nhân tạo TQ nhiều lần tuyên bố chúng chỉ để cho mục đích dân sự chứ không phải quân sự. Nhưng "gậy ông đập lưng ông", PCA viện dẫn những tuyên bố này của TQ để khẳng định lại jurisdiction của tòa vì nếu các đảo nhân tạo đó được xây cho mục đích quân sự thì sẽ được loại trừ khỏi jurisdiction theo qui định của UNCLOS.
https://www.lawfareblog.com/tribunal-issues-landmark-ruling-south-china-sea-arbitration
https://www.lawfareblog.com/tribunal-issues-landmark-ruling-south-china-sea-arbitration
Thursday, July 7, 2016
Hôm qua một bạn hỏi tôi về negative interest rate thì hôm nay đọc được bài này: toàn bộ đường yield curve của Thuỵ...
Hôm qua một bạn hỏi tôi về negative interest rate thì hôm nay đọc được bài này: toàn bộ đường yield curve của Thuỵ Sĩ (từ overnight đến 50 year) đã rớt xuống dưới không. Điều đó có nghĩa là ở thời điểm này các nhà đầu tư chấp nhận trả tiền cho chính phủ Thuỵ Sĩ để được cho vay. Trái phiếu chính phủ một số nước khác (Nhật, Đức) cũng đã rơi xuống negative.
Sở dĩ có hiện tượng này là vì trong tình hình rối ren hiện tại, trái phiếu chính phủ những quốc gia đó được coi là safe haven và các nhà đầu tư chấp nhận trả phí (negative yield) để được các chính phủ giữ hộ tiền. Giới đầu tư hiện tại cho rằng "the return OF capital is more important than the return ON capital".
Một lý do nữa là với các nhà đầu tư nước ngoài expected return khi đầu tư vào trái phiếu chính phủ Thuỵ Sĩ hay Nhật không chỉ là bond yield mà còn là expected appreciation của đồng franc và đồng yen. Ví dụ một nhà đầu tư Mỹ mua trái phiếu chính phủ Thuỵ Sĩ 10 năm có yield khoảng -0.6% nhưng nếu đồng CHF lên giá 5% so với USD thì anh ta vẫn có lời.
Negative interest rate của các ngân hàng trung ương (vd ECB, BoJ) thì khác. Trong một hệ thống tài chính các ngân hàng thương mại luôn phải có môt khoản deposit ở ngân hàng trung ương (CB). Dù là tiền gửi nhưng thường CB không trả hoặc trả lãi suất rất thấp cho khoản deposit này. Hiện tại một số CB không những không trả lãi mà còn bắt các ngân hàng thương mại phải trả phí (negative interest). Do đó các ngân hàng phải tìm mọi cách cho vay để giảm thiểu số deposit phải gửi ở CB mà gần đây tăng lên rất cao do hậu quả của các chính sách QE và nới lỏng tiền tệ của CB.
Tất nhiên các ngân hàng thương mại có thể cũng buộc khách hàng phải trả phí cho những khoản deposit tại ngân hàng của họ. Tuy nhiên điều này khó hơn vì khách hàng có thể giữ cash ở nhà thay vì deposit vào ngân hàng (một số ngân hàng cũng tăng lượng cash ở hội sở của mình để giảm số deposit ở CB, nhưng cách này không hiệu quả vì chi phí cao).
Cũng chính vì các ngân hàng thương mại khó có thể bắt khách hàng trả phí cho deposit (negative interest) nên sẽ không có chuyện họ cho vay với lãi suất âm. Nghĩa là các ngân hàng có thể giảm lãi suất cho vay đến một mức độ nào đó rồi ngừng không cho vay nữa chứ không thể giảm thấp hơn zero. Chính vì lý do này một số nhà kinh tế cho rằng chinh sách lãi suất âm của một số CB không có hiệu quả kích thích cho vay như các CB mong đợi.
Do đó nếu bạn đang vay/mortgage của một ngân hàng nào đó thì đừng hi vọng một ngày nào đó thay vì phải trả lãi hàng tháng ngân hàng sẽ chuyển vào tài khoản của bạn một khoản tiền nhỏ.
http://www.businessinsider.com.au/all-swiss-government-bond-yields-are-now-negative-2016-7
http://www.businessinsider.com.au/all-swiss-government-bond-yields-are-now-negative-2016-7
Sở dĩ có hiện tượng này là vì trong tình hình rối ren hiện tại, trái phiếu chính phủ những quốc gia đó được coi là safe haven và các nhà đầu tư chấp nhận trả phí (negative yield) để được các chính phủ giữ hộ tiền. Giới đầu tư hiện tại cho rằng "the return OF capital is more important than the return ON capital".
Một lý do nữa là với các nhà đầu tư nước ngoài expected return khi đầu tư vào trái phiếu chính phủ Thuỵ Sĩ hay Nhật không chỉ là bond yield mà còn là expected appreciation của đồng franc và đồng yen. Ví dụ một nhà đầu tư Mỹ mua trái phiếu chính phủ Thuỵ Sĩ 10 năm có yield khoảng -0.6% nhưng nếu đồng CHF lên giá 5% so với USD thì anh ta vẫn có lời.
Negative interest rate của các ngân hàng trung ương (vd ECB, BoJ) thì khác. Trong một hệ thống tài chính các ngân hàng thương mại luôn phải có môt khoản deposit ở ngân hàng trung ương (CB). Dù là tiền gửi nhưng thường CB không trả hoặc trả lãi suất rất thấp cho khoản deposit này. Hiện tại một số CB không những không trả lãi mà còn bắt các ngân hàng thương mại phải trả phí (negative interest). Do đó các ngân hàng phải tìm mọi cách cho vay để giảm thiểu số deposit phải gửi ở CB mà gần đây tăng lên rất cao do hậu quả của các chính sách QE và nới lỏng tiền tệ của CB.
Tất nhiên các ngân hàng thương mại có thể cũng buộc khách hàng phải trả phí cho những khoản deposit tại ngân hàng của họ. Tuy nhiên điều này khó hơn vì khách hàng có thể giữ cash ở nhà thay vì deposit vào ngân hàng (một số ngân hàng cũng tăng lượng cash ở hội sở của mình để giảm số deposit ở CB, nhưng cách này không hiệu quả vì chi phí cao).
Cũng chính vì các ngân hàng thương mại khó có thể bắt khách hàng trả phí cho deposit (negative interest) nên sẽ không có chuyện họ cho vay với lãi suất âm. Nghĩa là các ngân hàng có thể giảm lãi suất cho vay đến một mức độ nào đó rồi ngừng không cho vay nữa chứ không thể giảm thấp hơn zero. Chính vì lý do này một số nhà kinh tế cho rằng chinh sách lãi suất âm của một số CB không có hiệu quả kích thích cho vay như các CB mong đợi.
Do đó nếu bạn đang vay/mortgage của một ngân hàng nào đó thì đừng hi vọng một ngày nào đó thay vì phải trả lãi hàng tháng ngân hàng sẽ chuyển vào tài khoản của bạn một khoản tiền nhỏ.
http://www.businessinsider.com.au/all-swiss-government-bond-yields-are-now-negative-2016-7
http://www.businessinsider.com.au/all-swiss-government-bond-yields-are-now-negative-2016-7
Wednesday, July 6, 2016
Nhân dịp đang nhận nhiều "gạch/đá" liên quan đến status về việc VN cũng xây đảo nhân tạo ở TS như TQ, tôi xin chia...
Nhân dịp đang nhận nhiều "gạch/đá" liên quan đến status về việc VN cũng xây đảo nhân tạo ở TS như TQ, tôi xin chia sẻ vài suy nghĩ liên quan đến mạng xã hội. Tôi không bất ngờ và cũng chẳng bận tâm khi bị chụp mũ "thân Tầu/nhận tiền của Tàu", tôi đã từng bị chụp mũ "phản động/chống phá nhà nước" lẫn "DLV/bênh vực chính quyền" nhiều lần rồi. Được hận hạnh đội đủ loại "mũ" như vậy cho thấy những gì tôi chia sẻ thực sự đa chiều và được nhiều thành phần khác nhau đọc/phản hồi. Đó là điều tôi mong đợi.
Thỉnh thoảng tôi thấy có một vài status của một số bạn trên FB tuyên bố vừa block người này, unfriend người kia vì không chấp nhận được quan điểm/phát ngôn của họ. Với tôi FB/mạng xã hội chỉ là những kênh thông tin/phát ngôn nên tôi không bao giờ block/unfriend ai vì khác quan điểm. Có hai tác hại nếu News Feed của bạn chỉ còn những gì bạn thích/đồng ý. Thứ nhất là dần dần bạn chỉ còn nhận được thông tin một chiều, những ý kiến phản biện - nhiều khi rất có lý - bị lọc khỏi cái mạng xã hội mà đáng ra phải rộng hơn nhiều những quan hệ offline của bạn. Ở chiều ngược lại, mọi điều bạn viết sẽ không còn đến được những người có quan điểm trái ngược với bạn. Nên nhớ mỗi khi ai đó vào "ném đá" thì cái status của bạn lại nổi lên ở đâu đó.
Thứ hai, nguy hiểm hơn, là tư duy của bạn có thể sẽ bị đẩy dần ra hai cực - quá tả (lề trái) hoặc quá hữu (lề phải). Nguy cơ này có thực và đã được nhiều người cảnh báo, không chỉ ở VN, không chỉ trên FB. Những hiện tượng chính trị/xã hội ở các nước gần đây (Brexit, Donald Trump, Marine Le Pen, Pauline Hanson...) là minh chứng cho thấy quan điểm của các tầng lớp dân chúng khác nhau ngày càng bị đẩy ra xa nhau. Điều này làm gia tăng căng thẳng và rủi ro xung đột trong một xã hội hay giữa các quốc gia. Khả năng hợp tác/thoả hiệp để cùng làm một điều gì đó có ích cho các bên sẽ khó khăn hơn nhiều.
Đáng tiếc là sự phân cực này còn bị cố tính đẩy xa ra vì mục tiêu chính trị. Trên FB hoạt động của các DLV của cả hai phía, nhiều khi với những từ ngữ rất khó nghe, sẽ chỉ làm tăng thêm việc block/unfriend lẫn nhau. Trong xã hội khuấy động nationalism, exceptionalism, xenophobia sẽ chỉ dẫn đến kỳ thị, đụng độ, bạo lực. Mạng xã hội nói riêng và công nghệ tin học nói chung, thay vì tăng cường sự thông cảm/chia sẻ giữa các thành phần xã hội, có nguy cơ đào sâu thêm hố ngăn cách. Không chỉ chủ nghĩa khủng bố mà sự gia tăng của các tư tưởng cực đoan khác cho thấy lịch sử nhân loại còn xa mới đến "the end" như Francis Fukuyama dự báo.
Thỉnh thoảng tôi thấy có một vài status của một số bạn trên FB tuyên bố vừa block người này, unfriend người kia vì không chấp nhận được quan điểm/phát ngôn của họ. Với tôi FB/mạng xã hội chỉ là những kênh thông tin/phát ngôn nên tôi không bao giờ block/unfriend ai vì khác quan điểm. Có hai tác hại nếu News Feed của bạn chỉ còn những gì bạn thích/đồng ý. Thứ nhất là dần dần bạn chỉ còn nhận được thông tin một chiều, những ý kiến phản biện - nhiều khi rất có lý - bị lọc khỏi cái mạng xã hội mà đáng ra phải rộng hơn nhiều những quan hệ offline của bạn. Ở chiều ngược lại, mọi điều bạn viết sẽ không còn đến được những người có quan điểm trái ngược với bạn. Nên nhớ mỗi khi ai đó vào "ném đá" thì cái status của bạn lại nổi lên ở đâu đó.
Thứ hai, nguy hiểm hơn, là tư duy của bạn có thể sẽ bị đẩy dần ra hai cực - quá tả (lề trái) hoặc quá hữu (lề phải). Nguy cơ này có thực và đã được nhiều người cảnh báo, không chỉ ở VN, không chỉ trên FB. Những hiện tượng chính trị/xã hội ở các nước gần đây (Brexit, Donald Trump, Marine Le Pen, Pauline Hanson...) là minh chứng cho thấy quan điểm của các tầng lớp dân chúng khác nhau ngày càng bị đẩy ra xa nhau. Điều này làm gia tăng căng thẳng và rủi ro xung đột trong một xã hội hay giữa các quốc gia. Khả năng hợp tác/thoả hiệp để cùng làm một điều gì đó có ích cho các bên sẽ khó khăn hơn nhiều.
Đáng tiếc là sự phân cực này còn bị cố tính đẩy xa ra vì mục tiêu chính trị. Trên FB hoạt động của các DLV của cả hai phía, nhiều khi với những từ ngữ rất khó nghe, sẽ chỉ làm tăng thêm việc block/unfriend lẫn nhau. Trong xã hội khuấy động nationalism, exceptionalism, xenophobia sẽ chỉ dẫn đến kỳ thị, đụng độ, bạo lực. Mạng xã hội nói riêng và công nghệ tin học nói chung, thay vì tăng cường sự thông cảm/chia sẻ giữa các thành phần xã hội, có nguy cơ đào sâu thêm hố ngăn cách. Không chỉ chủ nghĩa khủng bố mà sự gia tăng của các tư tưởng cực đoan khác cho thấy lịch sử nhân loại còn xa mới đến "the end" như Francis Fukuyama dự báo.
Tuesday, July 5, 2016
Một bài review quan trọng về các ý tưởng/cách thức cải tiến giáo dục đại học của nhiều nước trên thế giới.
Một bài review quan trọng về các ý tưởng/cách thức cải tiến giáo dục đại học của nhiều nước trên thế giới. Các bạn ở FUV và các trường ĐH khác nên tham khảo.
http://www.economist.com/news/international/21701081-new-crop-hands-universities-transforming-how-students-learn-flying-high
http://www.economist.com/news/international/21701081-new-crop-hands-universities-transforming-how-students-learn-flying-high
http://www.economist.com/news/international/21701081-new-crop-hands-universities-transforming-how-students-learn-flying-high
http://www.economist.com/news/international/21701081-new-crop-hands-universities-transforming-how-students-learn-flying-high
Tranh cãi về một dấu chấm (có tồn tại hay không) trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ đằng sau cụm từ "pursuit of...
Tranh cãi về một dấu chấm (có tồn tại hay không) trong Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ đằng sau cụm từ "pursuit of Happiness":
"We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness. — That to secure these rights, Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed ….”
PS. Công nhận HCM (hay ai đó) dịch "the pursuit of happiness" thành "quyền mưu cầu hạnh phúc" hay tuyệt.
PPS. Đa số dân Mỹ sùng kính các "Founding Fathers" hệt như nhiều người Việt sùng kính "Bác Hồ". Nhưng tôi mới đọc được trên Quora một câu trả lời rất hay, đưa ra bằng chứng những "cha già dân tộc" đó cũng có tư tưởng phân biệt chủng tộc, giới tính, có những hành động dã man và đôi khi giả dối. Đúng là họ đã đặt nên móng tuyệt vời cho một quốc gia nhưng không nên coi họ là nhũng vị thánh không tì vết và không nên tụng niệm những phát biểu/quan điểm của họ như những kim chỉ nam không bao giờ sai.
http://www.businessinsider.com.au/period-in-declaration-of-independence-2016-6
http://www.businessinsider.com.au/period-in-declaration-of-independence-2016-6
"We hold these truths to be self-evident, that all men are created equal, that they are endowed by their Creator with certain unalienable Rights, that among these are Life, Liberty and the pursuit of Happiness. — That to secure these rights, Governments are instituted among Men, deriving their just powers from the consent of the governed ….”
PS. Công nhận HCM (hay ai đó) dịch "the pursuit of happiness" thành "quyền mưu cầu hạnh phúc" hay tuyệt.
PPS. Đa số dân Mỹ sùng kính các "Founding Fathers" hệt như nhiều người Việt sùng kính "Bác Hồ". Nhưng tôi mới đọc được trên Quora một câu trả lời rất hay, đưa ra bằng chứng những "cha già dân tộc" đó cũng có tư tưởng phân biệt chủng tộc, giới tính, có những hành động dã man và đôi khi giả dối. Đúng là họ đã đặt nên móng tuyệt vời cho một quốc gia nhưng không nên coi họ là nhũng vị thánh không tì vết và không nên tụng niệm những phát biểu/quan điểm của họ như những kim chỉ nam không bao giờ sai.
http://www.businessinsider.com.au/period-in-declaration-of-independence-2016-6
http://www.businessinsider.com.au/period-in-declaration-of-independence-2016-6
Có mấy điểm trong bài báo này cần đính chính lại.
Có mấy điểm trong bài báo này cần đính chính lại. Thứ nhất, ETF dịch là "quĩ tín thác" không chính xác, thuật ngữ này đã được sử dụng phổ biến dịch cho từ trust/trustee. Tốt nhất nên giữ nguyên tên viết tắt ETF không cần dịch, hoặc cùng lắm gọi là "quĩ ETF". Còn nếu buộc phải dịch toàn bộ thì có thể dùng "quĩ niêm yết mở".
Thứ hai, SPDR không phải là một ETF chuyên về vàng mà là tên gọi chung của một số ETF do ngân hàng State Street thành lập và vận hành. SPDR chuyên về vàng là SPDR Gold Shares, nếu muốn gọi tắt thì nên sử dụng mã giao dịch trên NYSE của nó là GLD.
Thứ ba, số liệu của CFTC (thường được biết dưới cái tên COT - Commitments of Traders report) về vàng và bạc thực ra là thống kê về options và futures liên quan đến hai loại hàng hoá này được giao dịch ở Mỹ. Các trader hàng tuần phải gửi thống kê cho CFTC (Commodity Futures Trading Commission) và phải phân loại thành speculative vs hedging.
http://www.thesaigontimes.vn/148485/Tien-o-at-do-vao-vang.html
http://www.thesaigontimes.vn/148485/Tien-o-at-do-vao-vang.html
Thứ hai, SPDR không phải là một ETF chuyên về vàng mà là tên gọi chung của một số ETF do ngân hàng State Street thành lập và vận hành. SPDR chuyên về vàng là SPDR Gold Shares, nếu muốn gọi tắt thì nên sử dụng mã giao dịch trên NYSE của nó là GLD.
Thứ ba, số liệu của CFTC (thường được biết dưới cái tên COT - Commitments of Traders report) về vàng và bạc thực ra là thống kê về options và futures liên quan đến hai loại hàng hoá này được giao dịch ở Mỹ. Các trader hàng tuần phải gửi thống kê cho CFTC (Commodity Futures Trading Commission) và phải phân loại thành speculative vs hedging.
http://www.thesaigontimes.vn/148485/Tien-o-at-do-vao-vang.html
http://www.thesaigontimes.vn/148485/Tien-o-at-do-vao-vang.html
Sunday, July 3, 2016
Năm ngoái tôi có email cho Greg Austin, một học giả người Úc rất thiên vị TQ, về một bài báo trên Diplomat của ông...
Năm ngoái tôi có email cho Greg Austin, một học giả người Úc rất thiên vị TQ, về một bài báo trên Diplomat của ông ta cho rằng VN "đạo đức giả" khi phản đối TQ xây các đảo nhân tạo ở TS. Ở thời điểm đó giống như đa số người Việt những gì tôi biết về hoạt động/chiếm đóng của VN ở quần đảo TS chỉ từ báo chí chính thống. Bởi vậy tôi "cãi" với Austin là VN không xây đảo nhân tạo mà chỉ cải tạo lại các bờ đảo bị sụt lún và gia cố các nhà giàn đã được xây dựng từ đầu thập kỷ 1990, rất lâu trước khi DOC được ASEAN và TQ ký. Nhưng tôi đã nhầm.
Vừa rồi tình cờ tìm được trang web này của viện CSIS (Singapore) về các thông tin liên quan đến tranh chấp Biển Đông trong đó có bài báo link bên dưới. Theo đó VN đã bồi đắp/lấn biển thêm khoảng 120 arces (48.5 ha) ở khu vực TS phần lớn trong 2 năm vừa qua. Đúng là VN chủ yếu chỉ lấn biển quanh các đảo lớn (đảo Trường Sa Lớn, Song Tử Tây...) nhưng ít nhất chúng ta đã (cố gắng) xây dựng một hòn đảo nhân tạo nhỏ tại Đá Núi Le (Cornwallis South Reef), trước đây chỉ là một rạn san hô nửa nổi nửa chìm. VN đã phớt lờ những lời kêu gọi ngừng lấn biển từ phía Mỹ để cùng tạo sức ép lên các hoạt động xây đảo nhân tạo của TQ.
Ở đây tôi không bàn về tính đúng sai của những hoạt động này, chỉ muốn cung cấp thêm thông tin cho các bạn (dù tôi không thể khẳng định thông tin trên trang web này chính xác đến đâu). Chí ít chúng ta cũng cần biết thông tin nhiều chiều chứ không chỉ những gì báo chí chính thống/chính phủ VN cho phép chúng ta được biết.
http://amti.csis.org/vietnams-island-building/
http://amti.csis.org/vietnams-island-building
Vừa rồi tình cờ tìm được trang web này của viện CSIS (Singapore) về các thông tin liên quan đến tranh chấp Biển Đông trong đó có bài báo link bên dưới. Theo đó VN đã bồi đắp/lấn biển thêm khoảng 120 arces (48.5 ha) ở khu vực TS phần lớn trong 2 năm vừa qua. Đúng là VN chủ yếu chỉ lấn biển quanh các đảo lớn (đảo Trường Sa Lớn, Song Tử Tây...) nhưng ít nhất chúng ta đã (cố gắng) xây dựng một hòn đảo nhân tạo nhỏ tại Đá Núi Le (Cornwallis South Reef), trước đây chỉ là một rạn san hô nửa nổi nửa chìm. VN đã phớt lờ những lời kêu gọi ngừng lấn biển từ phía Mỹ để cùng tạo sức ép lên các hoạt động xây đảo nhân tạo của TQ.
Ở đây tôi không bàn về tính đúng sai của những hoạt động này, chỉ muốn cung cấp thêm thông tin cho các bạn (dù tôi không thể khẳng định thông tin trên trang web này chính xác đến đâu). Chí ít chúng ta cũng cần biết thông tin nhiều chiều chứ không chỉ những gì báo chí chính thống/chính phủ VN cho phép chúng ta được biết.
http://amti.csis.org/vietnams-island-building/
http://amti.csis.org/vietnams-island-building
Subscribe to:
Comments (Atom)
Bitcoin II
http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html
-
Tôi không phản đối việc tăng giá điện, miễn là nó được quyết định bởi cung cầu và thị trường điện có cạnh tranh. Nhưng phát biểu này của thố...
-
Đọc "Ái tình và Cam ranh" của 5Xu chợt nhớ đến quốc gia này ở châu Phi. Cho dù Cam Ranh có mở cửa cho tàu của TQ vào, Djubouti mới...
-
Dành cho các bạn sinh viên kinh tế: một khoá học econometrics ngắn về network models. http://economistsview.typepad.com/economistsview/2014/...