Sunday, June 29, 2014

Tôi có lần comment trên FB của anh Huy Đức về vấn đề nghỉ hưu ở Úc mà về căn bản khác xa chế độ hưu trí của VN.

Tôi có lần comment trên FB của anh Huy Đức về vấn đề nghỉ hưu ở Úc mà về căn bản khác xa chế độ hưu trí của VN. Đa số người Việt (và có lẽ nhiều nước khác) hiểu sai vấn đề tăng tuổi nghỉ hưu lên 70 mà chính phủ của thủ tướng Tony Abbott vừa đưa ra, bài báo link dưới đây cũng vậy.

Xin nhắc lại ở Úc không có tuổi nghỉ hưu bắt buộc như VN, bạn muốn làm việc đến khi nào thì tuỳ bạn. Điều quan trọng là bạn còn có ích cho nơi bạn làm việc hay không, cả về trình độ chuyên môn lẫn sức khoẻ, chứ tuổi tác không quan trọng. Ngược lại bạn cũng có thể nghỉ hưu sớm bất kỳ khi nào, miễn là bạn có đủ tiền để sống quãng đời còn lại mà không cần đi làm. Chỉ có những ai rất thành công/may mắn trong cuộc sống (về mặt tiền bạc) mới nghỉ hưu sớm và đó thường là điều họ tự hào.

Như vậy tuổi nghỉ hưu mà bài báo nói đến là gì? Trên thực tế ở Úc có 2 tuổi nghỉ hưu liên quan đến 2 loại "lương hưu" mà người Úc có thể nhận khi về già. Loại thứ nhất là tiền hưu do bạn buộc phải tiết kiệm khi còn đi làm. Trước đây luật Úc bắt buộc tối thiểu mỗi người có thu nhập phải trích ra 9% lương trước thuế đóng vào một quĩ đầu tư hưu trí theo dạng defined contribution (DC) gọi là superannuation hay nói tắt là super. Luật hiện tại yêu cầu tăng dần tỷ lệ này lên 12% trong giai đoạn 2014-2022. Đến khi bạn tròn 60 tuổi (tuổi nghỉ hưu thứ nhất) thì được quyền rút tiền từ super ra chi tiêu bất kể lúc đó bạn còn đi làm hay không. Tiền super chính là tiền của bạn tiết kiệm (phần bắt buộc và phần tự nguyện đóng thêm) cộng với lợi tức do quĩ super đầu tư giúp bạn đem lại.

Loại lương hưu thứ hai chỉ được nhận khi bạn tròn 65 tuổi theo luật hiện tại, đến năm 2023 sẽ tăng lên 67 và 2035 lên 70 như bài báo tường thuật. Thực ra đây không phải lương hưu đúng nghĩa mà là một dạng trợ cấp xã hội (social security/safety net) cho người già và nghèo. Nghĩa là để được nhận loại trợ cấp này ngoài việc phải trên tuổi nghỉ hưu thứ hai bạn phải có rất ít tài sản (nhà cửa, đầu tư, super) và thu nhập dưới một ngưỡng nhất định nếu bạn còn đi làm hoặc có một nguồn thu nhập nào khác. Đây là tiền trực tiếp từ ngân sách chính phủ chứ không phải từ một quĩ hưu trí hay bảo hiểm xã hội nào đó.

Hệ thống lương hưu này của Úc (DC + social safety net) hiện tại được cho là tiên tiến nhất thế giới và được các tổ chức quốc tế khuyến cáo các nước còn sử dụng hệ thống defined benefit - DB (như VN) áp dụng. Việc chuyển đổi khá phức tạp và tốn kém, nhưng đó là cách duy nhất để tránh khỏi tình trạng quĩ lương hưu/bảo hiểm xã hội bị phá sản khi dân số già đi. Tôi đã từng cho rằng một sai lầm chính sách rất lớn của VN là khi bắt đầu xây dựng hệ thống hưu trí/bảo hiểm xã hội đã đi theo con đường DB thay vì DC. VN cần phải chuyển đổi sang DC càng sớm càng tốt, tăng tuổi hưu chỉ là biện pháp tạm thời.
http://tuoitre.vn/The-gioi/614819/nguoi-uc-se-lam-viec-den-70-tuoi.html

Saturday, June 28, 2014

Các bạn phóng viên viết về bond phải hết sức cẩn thận.

Các bạn phóng viên viết về bond phải hết sức cẩn thận. Khác với cổ phiếu có giá lên xuống rõ ràng, giá của bond gắn liền với yield (lợi suất) theo tỷ lệ nghịch và rất dễ bị nhầm. Khi yield tăng giá bond giảm và ngược lại.

Đối với nhà đầu tư (người nắm giữ bond) thì yield giảm (giá tăng) là họ có lợi nhuận (tương đương như giá cổ phiếu tăng). Để đánh giá mức độ sinh lời của bond, một số tổ chức (vd Merrill Lynch) xây dựng các bond index, ở đây phải hiểu là return index giống như các chỉ số chứng khoán (S&P 500, FTSE, Nikkei, VN-Index...). Như vậy khi bài báo của Bloomberg nói bond index của VN tăng tốt nhất có nghĩa là giá bond tăng nhiều nhất, tương đương bond yield của VN giảm mạnh nhất (nếu VN đi vay (phát hành trái phiếu USD) vào lúc này sẽ lợi hơn 12 tháng trước).

Con số 15.49% trích dẫn trong bài báo dưới đây là bond index return trong 12 tháng qua chứ không phải bond yield (bond yield chỉ khoảng 7%). Nghĩa là nếu một nhà đầu tư bỏ $100 mua trái phiếu VN 12 tháng trước thì bây giờ số tiền đó đã tăng thành $115.49. Yield không phải return nên không bao giờ nói "lợi suất trong vòng 12 tháng qua" mà chỉ nói "lợi suất bằng X%". Yield của trái phiếu VN giảm vì NHNN cắt giảm lãi suất (nên interest rate expectation) và risk premium giảm.

Một điều buồn cười là mới vài tuần trước chính Bloomberg có môt bài nói bond của VN có return kém nhất khu vực trong tháng 5 vì vụ bạo loạn Bình Dương/Vũng Áng (https://plus.google.com/112488760986970926997/posts/bkpBT8AnH5k).
http://gafin.vn/20140627015055816p0c32/bloomberg-trai-phieu-usd-viet-nam-tot-nhat-chau-a.htm

Thursday, June 26, 2014

Cho đến hôm nay tôi chưa biết gì về bác này, nhưng quả thực đọc tin thấy rất vui và có một chút tự hào.

Cho đến hôm nay tôi chưa biết gì về bác này, nhưng quả thực đọc tin thấy rất vui và có một chút tự hào. Bác Hiếu từng là senior manager của ASIC, tương đương như SEC của Mỹ hay Uỷ ban Chứng khoán của VN. Đọc về cuộc đời của thuyền nhân này cho đến khi trở thành state governor mới thấm thía câu phát biểu:

"This appointment, however, says much more about our society than about me. It sends a powerful message affirming our inclusive and egalitarian society."

Đúng là chỉ có trong một xã hội "egalitarian" như thế này (lưu ý bác ấy không dùng chữ socialist/fair/equal) một người xuất thân bình thường vẫn có thể được vinh danh vì những cống hiến cho xã hội chứ không phải vì tiền tài hay địa vị trong chính quyền.

Giải thích thêm cho các bạn không sống ở Úc về chức governor. Khác với Mỹ, state governor ở Úc là một vị trí có tính biểu tượng chứ không có thực quyền. Úc vẫn coi nữ hoàng Anh là head of state, đại diện cho nữ hoàng ở cấp liên bang là general governor, ở bang là state governor.

Hệ thống chính trị của Úc coi head of state (bang và liên bang) là các vị trí biểu tượng cho quốc gia/bang. Nghĩa là những người được tiến cử vào các vị trí đó không phải là các chính trị gia mà là những người có công lao/đóng góp lớn cho cộng đồng (Úc không có khái niệm dân tộc chung cho người Úc). Họ thường là những nhà khoa học, bác sĩ, luật sư, quân nhân chuyên nghiệp, nghệ sĩ, hay như bác Hiếu là một career bureaucrat.

Head of state, vì là biểu tượng (và không có quyền lực thực sự), nên không do dân bầu ra mà được đề cử rồi nữ hoàng Anh duyệt (tất nhiên việc phê duyệt chỉ là hình thức). Ngược lại các chính trị gia (nghị sĩ, thành viên chính phủ) được coi là người làm thuê cho dân và phải được bầu thông qua phổ thông đầu phiếu. Người dân có thể nói xấu, thậm chí phỉ báng các chính trị gia nhưng luôn kính trọng các governor. Rất hiếm governor có scandal khi đang giữ vị trí đó.

Dinh thự dành cho general governor/state governor luôn là những ngôi nhà đẹp nhất ở các thành phố thủ phủ của Úc. Trong khi đó chỉ trừ thủ tướng có nhà công vụ, cũng khá rộng nhưng vẫn thua xa dinh thự của governors, các bộ trưởng và nghị sĩ phải tự lo chỗ ăn ở. Nhiều người trong số đó, kể cả phó thủ tướng, chỉ thuê một căn phòng bình thường trong một cái motor inn khá bình dân gần khu vực nhà quốc hội. Tất nhiên họ không có xe công đưa đón và cảnh vệ như nhiều quan chức VN. Ý nghĩa của chữ "egalitarian society" là như vậy.
http://www.abc.net.au/news/2014-06-26/hieu-van-le-appointed-sa-governor/5552004

Wednesday, June 25, 2014

"Nói nhỏ" lần cuối.

"Nói nhỏ" lần cuối.

Nhiều người, trong đó có tôi, cho rằng bất kể chủ quyền của đảo Triton thuộc về ai, hòn đảo này (nguyên thủy chỉ là một cồn cát nhỏ không có sự sống) không thể có EEZ mà chỉ có 12 hải lý territorial water. Việc TQ đặt giàn khoan cách đảo này 17 hải lý cho thấy nước này khẳng định 2 điều: Triton thuộc về TQ và nó có EEZ.

Lưu ý trong các phản bác của TQ họ nói giàn khoan HD-981 nằm trong contiguous zone (thêm 12 hải lý từ giới hạn của territorial water) chứ không nói thẳng ra EEZ. Nhưng theo UNCLOS khái niệm contiguous zone không bao hàm quyền được khai thác tài nguyên, đây chỉ là vùng đệm cho các nước thực thi chủ quyền của mình trong các lĩnh vực chống buôn lậu, bảo vệ môi trường. Khai thác tài nguyên phải nằm trong EEZ (hoặc continental shell, có thể rộng ra đến 350 hải lý).

Đường "ưỡi bò" của TQ cũng là môt dạng vừa claim chủ quyền của tất cả các đảo ở Biển Đông vừa clain EEZ cho các đảo đó. Nói tóm lại những claim đó của TQ (về EEZ quanh các đảo) hoàn toàn trái ngược với UNCLOS, cho thấy "lòng tham" của nước này. Tuy nhiên năm 1977 VN đưa ra một tuyên bố tương tự như vậy.

Tuyên bố của VN claim chủ quyền tất cả các đảo trên Biển Đông đồng thời claim cả EEZ cho các hòn đảo đó. Nếu tuyên bố đó được vẽ thành bản đồ (có thể đã có bản đồ mà tôi không biết, trừ một số bản đồ phân lô dầu khí) thì phần chủ quyền kinh tế của VN không kém phần "tham lam" so với cái "lưỡi bò" của TQ hiện tại. Việc claim EEZ cho tất cả các đảo như vậy (tất nhiên có Triton) sẽ là một trở ngại cho VN nếu bây giờ chúng ta đi kiện TQ với lập luận Triton không có EEZ, đây là ý kiến của học giả Trương Nhân Tuấn.

Điểm khác biệt duy nhất, và rất quan trọng, giữa VN và TQ là từ thập kỷ 1970 đến nay VN đã dần dần đi vào quĩ đạo UNCLOS bỏ bớt những đòi hỏi chủ quyền quá "tham" và "phô" trong khi TQ vẫn khăng khăng giữ đường lưỡi bò từ năm 1947. Năm 2009 VN cùng với Malaysia nộp tài liệu về chủ quyền biển cho CLCS, tòan bộ EEZ xung quanh HS-TS đã được gỡ bỏ. Vấn đề "innocent passage" trong mục "nói nhỏ" trước cũng được Luật Biển 2012 của VN sửa đổi theo hướng gần hơn với UNCLOS, dù vẫn yêu cầu tàu bè nước ngoài phải thông báo cho phía VN biết trước (thay vì phải được VN cho phép).

Tài liệu tham khảo: http://nsc.anu.edu.au/documents/occasional-5-brief-5.pdf.
http://nsc.anu.edu.au/documents/occasional-5-brief-5.pdf

Thực ra việc đổi tên đường trước đại sứ quán TQ ở Washington DC mới chỉ được House Appropriations Committee (một ủy...

Thực ra việc đổi tên đường trước đại sứ quán TQ ở Washington DC mới chỉ được House Appropriations Committee (một ủy ban trong hạ viện) bỏ phiếu thuận thôi, còn phải qua full House, Senate, và Obama ký nữa.

Người đưa ra đề nghị này là nghị sĩ Frank Wolf thuộc đảng Cộng hòa, nên chưa rõ Senate do đảng Dân chủ nắm đa số và TT Obama sẽ phản ứng thế nào. Ông nghị sĩ này "đính kèm" yêu cầu đổi tên vào một dự luật quan trọng hơn phê chuẩn ngân sách cho bộ Ngoại giao Mỹ. Vì đảng Dân chủ cần thông qua ngân sách nên họ buộc phải chấp nhận yêu cầu của Frank Wolf. Politics ở Mỹ là vậy.

Một điều thú vị là năm 1984 QH Mỹ đã từng đổi tên một đoạn phố trước cổng đại sứ quán LX thành Andrei Sakharov.
http://www.smh.com.au/world/us-may-rename-chinese-embassys-street-after-chinas-most-famous-political-prisoner-20140626-zsm9u.html#ixzz35hpgWaXm

Tiếp tục vụ "nói nhỏ" liên quan đến Biển Đông nhé.

Tiếp tục vụ "nói nhỏ" liên quan đến Biển Đông nhé.

Theo nguyên tắc UNCLOS hải phận, EEZ của các nước được tính từ bờ biển. Nhưng nếu bờ biển quá lỗi lõm và nhiều cồn, đảo ven bở thì để đơn giản các nước có thể vẽ một đường bao bên ngoài các phần đất nhô ra đó, đường này gọi là đương cơ sở (baseline). Hải phận 12 hải lý và EEZ 200 hải lý là tính từ đường baseline này. Còn bên trong baseline là internal water của mỗi nước, có thể coi tương đương như mặt nước vịnh nội địa.

Thông thường đường baseline là các đoạn thẳng nối các điểm nhô ra cao nhất. Vì bờ biển thường khúc khuỷu nên các đoạn thẳng của đường baseline thường rất ngắn, chỉ khoảng một vài hải lý. Như vậy độ dài của các đoạn thẳng trên đường cơ sở càng lớn thì khả năng phần internal water bên trong càng to. Greg Austin đề ra ý tưởng sử dụng độ dài này để đo "lòng tham" của các quốc gia: tính độ dài lớn nhất của các đoạn thẳng cấu thành baseline, quốc gia nào có con số này càng lớn thì có nghĩa càng tham.

Không có gì ngạc nhiên khi đoạn thẳng dài nhất trên đường baseline của TQ là 108 hải lý. Còn của VN là bao nhiêu? Câu trả lời là ....
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.... 150 hải lý.

Nhưng đây là một đoạn baseline của VN trong Vịnh Bắc Bộ chạy dọc theo kinh tuyến 108 độ 3 phút 13 giây theo công ước Pháp-Thanh mà VN đòi hỏi cho đến năm 2000. Sau đó khi VN và TQ ký hiệp định Vịnh Bắc Bộ sử dụng đường trung tuyến thì VN không còn đoạn baseline này nữa. Không rõ đoạn dài nhất của VN hiện nay là bao nhiêu, nhưng chắc chắn đã ngắn hơn nhiều.

Trên trang web tiếng Anh của Bộ Ngoại giao có tin "Vietnam recognizes legal status of the PCA".

Trên trang web tiếng Anh của Bộ Ngoại giao có tin "Vietnam recognizes legal status of the PCA". Tin này làm tôi thắc mắc vì chẳng lẽ từ trước tới giờ VN chưa từng công nhận "legal stutus" của cơ quan này, nơi mà Philippines đã đem vụ tranh chấp biển với TQ ra nhờ xử?

Hóa ra không phải vậy. VN đã công nhận 2 văn bản (convention) điều phối hoạt động của tòa trọng tài quốc tế này từ năm 2011 và 2012. Buổi lễ ký kết vừa rồi là ký "Host Country Agreement" với PCA, nghĩa là thỏa thuận đồng ý cho PCA tiến hành các vụ xử trên lãnh thổ VN (xem thêm ở đây: http://www.pca-cpa.org/showpage.asp?pag_id=1276).

Tất nhiên điều này tốt cho VN cho dù VN sẽ phải chịu phí tổn đảm bảo các yêu cầu của PCA cho các vụ xử. Nhưng tại sao BNG và một số tờ báo tiếng Anh của VN lại đưa tin sai lệch như vậy? Trong khi đó báo chí tiếng Việt không bị nhầm (vd báo TN: http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140623/viet-nam-ky-hiep-dinh-nuoc-chu-nha-voi-toa-trong-tai-thuong-truc.aspx).

Hay BNG muốn "đánh tiếng" cho những người đọc tin tiếng Anh rằng chúng tôi đang chuẩn bị kiện đây?
http://www.presscenter.org.vn/vietnam-recognizes-legal-status-of-the-pca_t221c8n59059tn.aspx

Tuesday, June 24, 2014

Theo Điều khoản 17 của UNCLOS ngay cả trong phạm vi territorial waters 12 hải lý của các nước tàu bè nước ngoài vẫn...

Theo Điều khoản 17 của UNCLOS ngay cả trong phạm vi territorial waters 12 hải lý của các nước tàu bè nước ngoài vẫn có quyền "innocent passage". Nghĩa là không cần xin phép chủ nhà nếu chiếc tàu đó chỉ đi ngang qua mà không dừng lại và không gây rủi ro (quân sự, môi trường) cho nước chủ nhà.

Tuy nhiên khi tuyên bố chủ quyền biển của mình TQ đã loại bỏ điều khoản này và yêu cầu các chủ tàu phải xin phép trước khi đi vào lãnh hải 12 hải lý của mình. Nói nhỏ: Indonesia và Việt Nam cũng bác bỏ "innocent passage".
http://books.google.com.au/books?id=Zaf8AgAAQBAJ&pg=PT143&dq=Major+Law+and+Policy+Issues+in+the+South+China+Sea&hl=en&sa=X&ei=zh-qU4PkKc3jkAX9vICABg&redir_esc=y#v=onepage&q=Major%20Law%20and%20Policy%20Issues%20in%20the%20South%20China%20Sea&f=false

Hôm trước có bạn hỏi tôi về việc NHNN phá giá VND 1%.

Hôm trước có bạn hỏi tôi về việc NHNN phá giá VND 1%. Tất nhiên tôi hoan nghênh quyết định này vì từ ít nhất 4-5 năm nay tôi luôn cho rằng VND bị giữ ở mức quá cao (i.e. tỷ giá USDVND quá thấp). Tuy nhiên tôi vẫn nghĩ rằng NHNN nên phá giá mạnh hơn để giúp tăng tính cạnh tranh cho hàng hóa của VN vì chênh lệch lạm phát của VN với các trading partners trong năm vừa qua vẫn rất cao, 1% không thể bù đắp cho sức cạnh tranh đã bị lạm phát bào mòn.

Mặc dù nhiều người chỉ ra việc VND bị overvalued khá lâu, tôi đã từng cho rằng NHNN khá e dè việc phá giá mạnh vì sợ lạm phát tăng. Một số chuyên gia và cả quan chức viện dẫn gánh nặng trả nợ nước ngoài sẽ tăng lên nếu phá giá nhưng tôi không nghĩ đó là lý do quan trọng. Miễn nominal GDP tăng nhanh hơn tốc độ phá giá thì gánh nặng trả nợ không bị ảnh hưởng bởi tỷ giá USDVND tăng lên. Theo tôi lần phá giá vừa rồi do NHNN đã thấy rủi ro lạm phát không còn quá lớn.

Nếu tình hình kinh tế và nhất là credit growth tiếp tục trì trệ, dẫn đến inflation risk thấp, thì NHNN sẽ tiếp tục phá giá. Điều đó tương đương như nới lỏng tiền tệ nhưng đồng thời NHNN lại có điều kiện tích lũy thêm foreign reserve nếu cung ngoại tệ không bị sụt giảm nghiêm trọng, i.e. FDI/FPI/kiều hối giảm hoặc bị trade deficit nặng. Cũng có thể NHNN sẽ giảm lãi suất thêm một vài đợt nữa trước khi phá giá, nhưng tôi nghĩ giảm lãi suất không còn nhiều tác dụng. Xét cho cùng VN không nên quá trông chờ vào các biện pháp tiền tệ để kích thích kinh tế dài hạn, cần tập trung cách chính sách giúp tăng productivity.

Mấy hôm trước có người nói các ngân hàng bị lỗ khi NHNN phá giá vì lúc đó họ có trạng thái ngoại tệ âm. Xét trên khía cạnh macro toàn bộ nền kinh tế phải có trạng thái ngoại tệ bằng không, do vậy khi các NHTM có trạng thái ngoại tệ âm thì ai đó phải có trạng thái ngoại tệ dương. Do vậy nếu các NHTM bị thiệt thì phải có ai đó được lợi, hay nói cách khác ở thời điểm phá giá có một lượng wealth transfer từ các NHTM sang một đối tượng nào đó trong nền kinh tế. FX trading luôn là zero-sum game.

PS. Viết xong rồi mới tìm thấy entry cũ này chi tiết hơn nhiều: http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2009/11/structural-reform-ii.html
http://gafin.vn/20140618080321577p0c34/nhnn-dieu-chinh-ty-gia-len-21246-vnd-usd.htm

Monday, June 23, 2014

Đã bao giờ bạn thắc mắc ai là người có quyền khai thác tài nguyên (không kể fishing[*]) trên các vùng biển quốc tế...

Đã bao giờ bạn thắc mắc ai là người có quyền khai thác tài nguyên (không kể fishing[*]) trên các vùng biển quốc tế bên ngoài EEZ của các nước chưa? Trên thực tế UNCLOS 1982 đã có qui định về vấn đề này và một tổ chức quốc tế - International Seabed Authority - đã được thành lập năm 1994 để quản lý toàn bộ các vấn đề liên quan đến khai thác tài nguyên (khoán sản và dầu khí) trên các vùng biển quốc tế.

UNCLOS tuyên bố rằng toàn bộ tài nguyên dưới đáy biển bên ngoài vùng chủ quyền của các nước (EEZ và continental shell) là "Common Heritage of Mankind". Việc khai thác tài nguyên ở những vùng biển này phải đảm bảo nguyên tắc công bằng cho các dân tộc và bảo vệ môi trường. Một biện pháp bảo đảm tính công bằng là "parallel system", nghĩa là một khu mỏ dưới đáy biển phải được chia đôi, một nửa giữ lại không khai thác để dành cho các nước nghèo sau này.

Hiện tại International Seabed Authority mới chỉ cấp giấy phép cho 18 công ty/đơn vị thăm dò sản lượng khoáng sản. Công ty nào muốn xin giấy phép phải được một quốc gia thành viên của UNCLOS đứng ra sponsor. Tổ chức này vẫn đang soạn thảo qui chế cấp phép khai thác, dự định đến 2016 sẽ có luật cho một số mỏ manganese đầu tiên. Hiện tại vấn đề thuế tài nguyên (royalty) và các cách thức ăn chia lợi nhuận (profit sharing) còn đang được cân nhắc. Chưa rõ số tiền thu được sẽ do ai quản lý, sẽ được nộp cho UN (?).

[*] Liên quan đến đánh bắt cá trên các vùng biển quốc tế UNCLOS giao quyền quản lý cho các tổ chức điều phối khu vực (Regional Fisheries Management Organizations).

(Tài liệu tham khảo: http://worldoceanreview.com/en/wor-3-overview/environment-and-law/international-commitments/)
http://www.isa.org.jm/en/about

Sunday, June 22, 2014

Hai tuần nay giới tài chính quốc tế xôn xao việc Tòa án Tối cao Mỹ bác bỏ đơn kháng án của Argentina trong một vụ...

Hai tuần nay giới tài chính quốc tế xôn xao việc Tòa án Tối cao Mỹ bác bỏ đơn kháng án của Argentina trong một vụ kiện liên quan đến trái phiếu chính phủ mà nước này đã restructured năm 2005. Báo chí VN đã từng đưa tin về vụ này khi "nguyên đơn" trong vụ kiện bắt giữ một chiếc tàu buồm của hải quân Argentina năm 2012 ở Ghana. Lần này chắc bận với HD-981 và WC nên không thấy mấy ai để ý.

Nguyên đơn trong vụ này là NML Capital, một công ty con của Elliott Management, nghĩa là anh em với Elliott Advisors, công ty đã từng kiện Vinashin ra tòa án Anh đòi nợ. Elliott Management là một vulture fund của tỷ phú Paul Elliott Singer, chuyên đi mua nợ quá hạn rồi đem ra tòa kiện buộc con nợ phải trả toàn bộ vốn lẫn lãi. Lần kiện tụng Vinashin con kền kền này đã thắng và VN phải chấp nhận đền bù với một số tiền mà không ai được biết (http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2012/04/vinashin-default-iii.html).

Lần này NML cũng thắng trên cơ sở điều khoản "pari passu", nghĩa là nếu Argentina đã trả nợ, dù một phần, cho các chủ nợ khác thì cũng phải có nghĩa vụ trả cho NML dù NML đòi trả cao hơn (cả vốn lẫn lãi). Thực ra NML đã thắng kiện lâu rồi nhưng điều quan trọng là thẩm phán Thomas Griesa đưa ra một trát tòa nghiêm cấm các ngân hàng Mỹ không được giúp Argentina thanh toán cho các chủ nợ khác trừ khi nước này đồng ý đền bù NML. Không một ngân hàng Mỹ nào dám làm trái lệnh tòa.

Rất nhiều nhà kinh tế/bình luận than trời về phán quyết của thẩm phán Griesa dù nó đúng luật (Mỹ). Vị thẩm phán có quan điểm right-wing này rất khó chịu với chính phủ Argentina hiện tại (nữ tổng thống Cristina Kirchner và ông chồng quá cố có tư tưởng socialist), cho rằng Argentina cố tình "chây" không chịu trả nợ chứ không phải không trả được. Bởi vậy Griesa cắt hết mọi ngõ ngách Argentina có thể lách luật để tránh bị default một lần nữa.

Việc Supreme Court từ chối không thụ lý đã đóng mọi ngả đường pháp lý của Argentina. Cristina Kirchner từ chỗ khăng khăng không chịu trả một xu nào cho Paul Singer bây giờ đã phải yêu cầu NML ngồi lại đàm phán. Vấn đề là nếu Argentina trả hết (vốn lẫn lãi) cho NML, các chủ nợ khác có thể sẽ kiện ra tòa để đòi lại phần của mình. Điều này không chỉ ảnh hưởng tới Argentina mà toàn bộ thị trường nợ chính phủ của các nước đang phát triển. Khả năng tái cấu trúc nợ qua Paris Club sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trong.

Như The Economist chỉ ra, các nước đang phát triển chỉ còn một giải pháp duy nhất là đưa "collective action clause" vào các hợp đồng nợ của mình (xem thêm vấn đề này ở đây: http://kinhtetaichinh.blogspot.com.au/2012/03/indenture-and-covenant.html). Hi vọng các lần phát hành trái phiếu quốc tế trước đây VN đã đưa điều khoản này vào indenture để nếu có rơi vào hoàn cảnh khó khăn không trả được nợ sẽ không phải đối mặt với Paul Singer một lần nữa.
http://www.bruegel.org/nc/blog/detail/article/1368-blogs-review-a-new-argentina

Theo Ang Cheng Guan ("The South China Sea Dispute Revisited" và "Vietnam-China Relations since the End of the Cold...

Theo Ang Cheng Guan ("The South China Sea Dispute Revisited" và "Vietnam-China Relations since the End of the Cold War"), ngày 7/3/1997 TQ đã kéo giàn khoan Kanto 3 vào thềm lục địa của VN (cách bờ biển VN 64.5 hải lý, cách Hải Nam 71 hải lý) tiến hành thăm dò dầu khí. Phía VN phản đối và ba ngày sau gửi công hàm cho TQ yêu cầu rút giàn khoan.

Ngày 20/3/1997 TQ họp báo tuyên bố giàn khoan Kanto 3 hoạt động trong EEZ của TQ, VN yêu cầu 2 bên gặp đàm phán đồng thời thông báo vụ vi phạm này cho các nước ASEAN. Ngày 3/4 TQ rút giàn khoan và thoả thuận hai bên sẽ gặp nhau đàm phán. Ngày 9-10/4/1997, Joint Working Group (*) họp ở Bắc Kinh nhưng nội dung và kết quả cuộc họp không được công bố, tuy nhiên hai bên đều nói sẽ giải quyết các bất đồng trên cơ sở hoà bình và không làm tổn hại đến quan hệ bạn bè.

Tháng 7/1997 TBT Đỗ Mười sang Bắc Kinh và hai bên thoả thuận sẽ đẩy nhanh tiến độ đàm phán biên giới đồng thời tuyên bố đã đạt được một số "thành quả" trong đàm phán. Theo Greg Austin (tôi đã trích dẫn hôm trước) năm 1997 là thời điểm VN đã phải nhượng bộ trong cuộc đàm phán phân chia ranh giới trên Vịnh Bắc Bộ mặc dù đến năm 2000 hai bên mới ký chính thức. Tháng 12/1997 Đỗ Mười từ nhiệm chức TBT trở thành cố vấn Ban Chấp hành TW cho đến năm 2001.

(*) Joint Working Group được 2 bên thành lập tháng 7/1995 để đàm phán và giải quyết các vấn đề biên giới và biển đảo. Ang Cheng Guan cho rằng việc VN gia nhập ASEAN và bình thường hoá quan hệ với Mỹ cũng trong tháng 7/1995 là một yếu tố thúc đẩy TQ chấp nhận lập nhóm làm việc này để giải quyết vấn HS-TS. Dưới thời Giang Trạch Dân đã có lúc 2 nước đàm phán về việc cùng khai thác tài nguyên xung quanh HS-TS tạm thời gác lại vấn đề chủ quyền, nhưng các cuộc đàm phán này không có kết quả.

Một chi tiết khác khá quan trọng là trong giai đoạn 1979-1982 VN đã có vài lần tìm cách chiếm lại HS nhưng không thành công. Ang Cheng Guan không nói rõ VN đã sử dụng biện pháp gì để tìm cách chiếm lại nhưng ông có vẻ ám chỉ VN đã sử dụng biện pháp quân sự. Tất nhiên giải pháp quân sự lúc đó đã thất bại thì sau này VN không thể có cửa chiếm lại bằng vũ lực nữa.

Thursday, June 19, 2014

Có thể bạn cũng chưa biết sự kiện này như tôi.

Có thể bạn cũng chưa biết sự kiện này như tôi. Theo Stein Tonnesson ("The South China Sea in the Age of European Decline"), cuối chiến tranh Thế giới thứ 2, tổng thống Mỹ Frankin Roosevelt rất quan tâm đến Đông Dương và muốn đuổi Pháp ra để đặt khu vực này dưới sự quản lý của một "international trusteeship".

Cuối năm 1944 Roosevelt thậm chí đã ra lệnh cho bộ phận tham mưu liên quân lên phương án tấn công và chiếm Bắc Bộ từ tay Nhật và chính quyền thuộc địa Pháp (phe Vichy). Đầu năm 1945 một phần của kế hoạch này đã được thực hiện khi đô đốc William Bull Halsey chỉ huy một hạm đội Mỹ tiến vào Biển Đông để tìm diệt tàu chiến Nhật. Kết quả của chiến dịch này là hạm đội Mỹ đã vào đến Cam Ranh bắn chìm 44 tàu chiến của Nhật và Pháp, trong đó có cả tuần dương hạm Lamotte-Piquet, chủ lực của hải quân Pháp tại Đông Dương lúc đó.

Không rõ vì lỹ do gì (Roosevelt qua đời hay Mỹ chế tạo xong bom nguyên tử?) mà kế hoạch đánh chiếm Bắc Bộ của Mỹ đã không được thực hiện. Nếu chữ "nếu" xảy ra, không chỉ lịch sử VN mà cả lịch sử TQ cũng đã khác.

Năm ngày trước khi thoái vị Hoàng đế Bảo Đại gửi một thông điệp cho Tổng thống Pháp Charles de Gaulle:

Năm ngày trước khi thoái vị Hoàng đế Bảo Đại gửi một thông điệp cho Tổng thống Pháp Charles de Gaulle:

"I beg you to understand that the only means of safeguarding French interests and the spiritual influence of France in Indochina is to recognize the independence of Vietnam unreservedly and to renounce any idea of reestablishing French sovereignty or rule here in any form. ... Even if you were reestablish the French administration here, it would not be obeyed, and each village will be a nest of resistance. ... We would be able to understand each other so easily and become friend if you could stop hoping to become our masters again."
http://books.google.com.au/books?id=1I4HOcmE4XQC&lpg=PP1&ots=YSnzxrBccG&dq=Stein+T%C3%B8nnesson&lr&pg=PP1#v=onepage&q=Stein%20T%C3%B8nnesson&f=false

Wednesday, June 18, 2014

Nói thêm về việc VN cũng từng đòi hỏi phân định ranh giới biển theo "historical right".

Nói thêm về việc VN cũng từng đòi hỏi phân định ranh giới biển theo "historical right".

Hiệp định Pháp-Thanh 1887 phân định biên giới Việt-Trung đồng thời phân chia đảo trên Vịnh Bắc Bộ theo nguyên tắc tất cả các đảo về phía Tây của đường kinh tuyến 105 độ 43 phút gốc Paris (tương đương 108 độ 3 phút 13 giây gốc Greenwich) thuộc về VN, các đảo phía đông đường kinh tuyến này thuộc về TQ.

Tác giả Dương Danh Huy (trong link bên dưới) cho rằng đường kinh tuyến này không phải là ranh giới biển giữa VN với TQ vì thời điểm 1887 chưa có khái niệm EEZ và thềm lục địa, theo thông lệ lúc đó các quốc gia chỉ có 3 hải lý hải phận dọc bờ biển của mình. Theo Greg Austin ("China’s Ocean Frontier–International Law, Military Force and National Development") năm 1974 VNDCCH đã chủ động yêu cầu TQ ký hiệp định phân chia vịnh Bắc Bộ sau khi TQ chiếm HS từ VNCH.

Phía VN đề nghị sử dụng đường kinh tuyến 108 độ 3 phút 13 giây làm đường phân chia vịnh Bắc Bộ với lập luận đó là đường phân chia theo hiệp định Pháp-Thanh 1887 (historical right). TQ tất nhiên không chịu vì như vậy VN sẽ được phần lớn vịnh Bắc Bộ và đề nghị sử dụng kinh tuyến 108 độ chạy xuống đến vĩ tuyến 18.

Tuy nhiên sau đó xảy ra chiến tranh biên giới Việt-Trung và đàm phán bị dừng lại gần 20 năm. Trong thời gian này TQ bắt đầu các hoạt động thăm dò dầu khí, năm 1982 phân lô cho đến kinh tuyến 108 như lập trường của mình năm 1974. VN phản đối và cũng trong năm 1982 một lần nữa tuyên bố chủ quyền của mình là toàn bộ vùng biển phía tây kinh tuyến 108 độ 3 phút 13 giây và vẽ đường cơ sở dọc theo kinh tuyến này. Không chỉ coi đây là EEZ của mình, VN tuyên bố toàn bộ vùng biển này là "internal water", nghĩa là còn có giá trị pháp lý cao hơn cả territorial water 12 hải lý. Một lần nữa VN lại viện dẫn historical right dựa vào hiệp định Pháp-Thanh 1887.

Đến năm 1995 hai bên bắt đầu ngồi lại đàm phán về biên giới trên đất liền và trên vịnh Bắc Bộ. Tất nhiên vào thời điểm sau "hội nghị Thành Đô" VN đã yếu thế hơn rất nhiều dù vẫn công khai giữ quan điểm từ những năm 1970. Theo Greg Austin một nguồn tin mật cho biết trong năm 1997 VN đã phải chấp nhận yêu sách của TQ sử dụng đường trung tuyến để phân chia vịnh Bắc Bộ.

Hiệp định vịnh Bắc Bộ được VN và TQ ký kết chính thức năm 2000 đã sử dụng đường trung tuyến. Điểm cuối cùng của đường phân chia có kinh độ 107 độ 58 phút (đông) và vĩ độ 17 độ 47 phút (bắc), nghĩa là đã nằm hẳn về phía tây nam (24.4km về hướng bờ biển Quảng Trị) của điểm do chính TQ đề nghị năm 1974. TQ đã phản bác thành công lập luận "historical right" của VN trong các cuộc đàm phán phân chia vịnh Bắc Bộ kéo dài gần 3 thập kỷ.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/vietnam/2011/01/110122_bacbo_agreement_10years_on.shtml

Trong bài phản bác lại luận điệu của đại sứ TQ, đại sứ VN tại Australia Lương Thanh Nghị trích dẫn GS Carl Thayer:

Trong bài phản bác lại luận điệu của đại sứ TQ, đại sứ VN tại Australia Lương Thanh Nghị trích dẫn GS Carl Thayer:

"Third, a “historic right” claim does not conform to the provisions of UNCLOS. As professor Carlyle A. Thayer pointed out, China’s reference to “contiguous zone” in the context of the oil rig is irrelevant. Therefore, the Chinese justification for the CNOOC981 incident is factually and legally untrustworthy."

Thuật ngữ "historical right" mà Carl Thayer nêu ra ở đây có ý nghĩa rất quan trọng. Trong vấn đề phân chia ranh giới trên biển giữa các quốc gia UNCLOS qui định cụ thể cách tính các giới hạn như territorial waters (12 hải lý), contigous zone (thêm 12 hải lý từ territorial waters limit), EEZ (200 hải lý) và continental shell (dựa vào cấu trúc đáy biển). Các yếu tố "lịch sử" không được tính đến, trừ một số ngoại lệ chủ yếu liên quan đến fishing rights.

Khi TQ đơn phương vẽ đường lưỡi bò 9 đoạn và tuyên bố chủ quyền tất cả các đảo trong khu vực lưỡi bò này, nước này tuyên bố dựa vào "historical rights". Đây là cách "đánh lận con đen" của TQ vì luật pháp quốc tế chỉ chấp nhận "historical right" trong việc tranh chấp chủ quyền đất và đảo chứ không phải cho các ranh giới trên biển (theo UNCLOS).

Chưa bàn về việc "historical right" của TQ đối với HS-TS có xác đáng hay không, việc TQ viện dẫn lý do này trong việc vẽ ranh giới biển không tuân thủ UNCLOS và lập luận của Carl Thayer đưa ra rất chính xác. Ngay cả trong trường hợp đảo Tri Tôn thuộc về TQ và giàn khoan HD-981 nằm trong contiguous waters của đảo này (mà nhiều khả năng UNCLOS cũng không công nhận) thì TQ cũng không có quyền đối với economic interest tại địa điểm đó vì nó nằm trong EEZ của VN và Tri Tôn không có EEZ theo qui định của UNCLOS.

Nhưng nói đi cũng phải nói lại, trước đây VN và các nước tranh chấp trên Biển Đông cũng tuyên bố chủ quyền biển dựa vào một số "historical rights". Tuy nhiên theo một tài liệu của Stratfor, một công ty tư vấn an ninh của Mỹ, bị tiết lộ trên Wikileak (http://wikileaks.org/gifiles/attach/97/97036_Spratlys%20final%20paper.pdf), TQ là nước tranh chấp duy nhất chỉ dựa vào "historical right" mà không đếm xỉa gì đến UNCLOS.

Nói thêm về historical fishing right. Theo UNCLOS nếu một quốc gia chứng minh được ngư trường truyền thống mà ngư dân của mình đã đánh bắt thủy sản trong lịch sử thì dù ngư trường đó được phân chia lại cho một quốc gia khác, quyền đánh bắt thủy sản có thể vẫn được bảo lưu. Như vậy nếu ngư dân VN đã đánh bắt thủy sản bao đời nay ở vùng biển HS thì bất kể quần đảo này thuộc về VN hay TQ, ngư dân VN vẫn có quyền đánh bắt trên ngư trường truyền thống theo nguyên tắc "historical fishing right". Việc TQ cấm đoán, xua đuổi, bắt bớ và đâm chìm tàu cá VN tại khu vực HS có thể đã vi phạm UNCLOS và VN có quyền khởi kiện theo hướng này ra một tòa án quốc tế.

[Ngoài lề: GS Trần Hữu Dũng chê chữ "untrustworthy" quá yếu, tôi cũng đồng ý như vậy. Tuy nhiên có thể từ đó là từ gốc của Carl Thayer mà đại sứ Nghị chỉ nhắc lại. Bài này còn dùng chữ "fired high-pressure water cannon", chữ "fire" không hợp với "water cannon" còn chữ "high-pressure" thừa. Nhưng nói chung tôi thấy bài viết khá ổn, trừ đoạn "work together" cuối cùng. Nếu là tôi sẽ là "We will sue the sh*t out of your rig" :-) ]
http://www.theaustralian.com.au/opinion/law-of-the-sea-draws-a-line-in-the-sand/story-e6frg6zo-1226956485931

Tuesday, June 17, 2014

Đắng lòng khi đọc trang wiki tiếng Việt về đảo Phú lâm (Woody), hòn đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong quần đảo...

Đắng lòng khi đọc trang wiki tiếng Việt về đảo Phú lâm (Woody), hòn đảo lớn nhất và quan trọng nhất trong quần đảo HS mà có khả năng sẽ được EEZ theo UNCLOS:

"Sau khi Nhật đầu hàng Đồng minh, vào tháng 6 năm 1946 Hải quân Pháp gửi chiến hạm Savorgnan de Brazza đến chiếm các đảo Hoàng Sa. Vì Chiến tranh Đông Dương bùng nổ dữ dội, vào tháng 9/1946 người Pháp rút quân khỏi Hoàng Sa.
...
"Bảy năm sau khi làm chủ được đại lục, chính quyền CHND Trung Hoa mới bí mật cho quân chiếm đóng đảo Phú Lâm vào đêm ngày 20, rạng ngày 21 tháng 2 năm 1956."
http://vi.wikipedia.org/wiki/Ph%C3%BA_L%C3%A2m_(%C4%91%E1%BA%A3o)

Câu hỏi bên dưới của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc đã được ông Trần Phương trả lời trong "Bên Thắng Cuộc"...

Câu hỏi bên dưới của nhà phê bình văn học Nguyễn Hưng Quốc đã được ông Trần Phương trả lời trong "Bên Thắng Cuộc" của Huy Đức. Năm ngoái tôi có một note bình luận chương 4 của BTC và đã lưu ý sự kiện này:

https://plus.google.com/112488760986970926997/posts/B2Tk5Kiw4Dx
http://www.nguoi-viet.com/absolutenm2/templates/viewarticlesNVO.aspx?articleid=190034&zoneid=434#.U6Ds6PmSyb4

Vị trí giàn khoan HD-981 cách đảo Tri tôn (Triton) 17 hải lý, nghĩa là nằm ngoài phạm vi territorial water 12 hải lý...

Vị trí giàn khoan HD-981 cách đảo Tri tôn (Triton) 17 hải lý, nghĩa là nằm ngoài phạm vi territorial water 12 hải lý của đảo này theo qui định của UNCLOS. Trong khi đó nó cách đường cơ sở của VN 130 hải lý, nghĩa là trong phạm vi EEZ của VN. Như vậy bất luận chủ quyền của Tri tôn thuộc về VN hay TQ, nếu Tri tôn không có EEZ thì giàn khoan này đã vi phạm vào EEZ của VN.

Theo UNCLOS Tri tôn sẽ không có EEZ nếu trong điều kiện nguyên thủy nó không đảm bảo cho sự sống. Trang Wikipedia tiếng Việt (link bên dưới) cho biết đảo này dù có diện tích khi thủy triều xuống lớn thứ ba trong quần đảo HS (sau Phú lâm và Lin côn) nó chỉ là một cồn cát thường xuyên bị ngập và không có cây cỏ. Tuy nhiên cũng theo trang Wiki này TQ đã chở đất ra và trồng cây lên đảo Tri tôn, có lẽ để tạo môi trường giả và sau này claim EEZ theo UNCLOS.

Bản Wiki tiếng Anh về Triton hoàn toàn không có những thông tin này. Trong khi bản tiếng Việt có reference chủ yếu dựa vào các nguồn của TQ và của TS Nguyễn Nhã. Như vậy để chuẩn bị cho việc kiện TQ ra một tòa án quốc tế theo luật UNCLOS VN cần phải chuẩn bị bằng chứng về những thông tin nêu trong Wiki tiếng Việt. Trước hết VN phải lưu giữ lại các trang web của TQ đã được trích dẫn (Thời báo Hoàn cầu, Hải Nam sử chí), nhất là thông tin TQ đã chở đất đá ra và trồng cây trên Tri tôn. VN cũng cần lục lại các tài liệu/ghi chép của các nhà hàng hải phương Tây trong thế kỷ 19, 20 về điều kiện ban đầu của Triton trước khi nó được TQ cải tạo.

Rất mong các bạn đang làm trang Wiki tiếng Việt về Tri tôn/HS-TS và các anh chị ở Quĩ Nghiên cứu Biển Đông cũng lưu giữ những tài liệu này. Xin được cảm ơn nếu mọi người đã làm rồi.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Tri_T%C3%B4n_(%C4%91%E1%BA%A3o)

Monday, June 16, 2014

Mặc dù tôi phải thừa nhận mình đã sai khi cho rằng Sam Bateman trích dẫn sai một số tác giả khác, tôi vẫn cho rằng...

Mặc dù tôi phải thừa nhận mình đã sai khi cho rằng Sam Bateman trích dẫn sai một số tác giả khác, tôi vẫn cho rằng Bateman thiên vị TQ trong bài phỏng vấn CNN mà tôi đã trích dẫn hôm trước. Đây không phải chuyên ngành của tôi nhưng chỉ sau vài ngày tìm hiểu literature của lĩnh vực này tôi nhận thấy đa số các tác giả có quan điểm trung lập dù họ phân tích điểm mạnh/điểm yếu của các bên. Không thể nói "Most objective, independent, international observers" ủng hộ bên này hay bên kia.

Tất nhiên có những người đi đến kết luận TQ có "stronger claim" như Austin và Greenfield, nhưng cũng có những người có quan điểm ngược lại. Không kể các học giả nổi tiếng "thân" VN hơn như Carl Thayer hay Jonathan London, tôi tìm được một quyển sách của Monique Chemillier-Gendreau ủng hộ phía VN rất mạnh mẽ. Bài review quyển sách này viết:

"Her study of the question leads to the conclusion that Vietnam was the only holder of a legally founded title, justifying its claim to sovereignty over the Paracels."



" ... Vietnam has the strongest claim in the case of the Paracels, as she refers to “ancient and well-founded rights”, and to the impossibility of transforming the fact of Chinese occupation into a legal right on account of the condemnation of China's use of force by international law and Hanoi's protestations against that occupation."

Tất nhiên kết luận của một/vài nhà nghiên cứu chưa phải là bằng chứng khẳng định chủ quyền của bên này hay bên kia. Tôi sẽ không bao giờ viện dẫn các kết luận đó để nói "Most objective, independent, international observers" ủng hộ quan điểm của VN. Có thể nói vấn đề chủ quyền của quần đảo HS rất phức tạp, ngay cả khi không đề cập đến công hàm 1958 (các bạn nên đọc Wikipedia bản tiếng Anh về Paracels: http://en.wikipedia.org/wiki/Paracel_Islands#20th-century_events).

Tuy nhiên cần phải tách biệt vấn đề này với vụ tranh chấp giàn khoan HD-981 chỉ liên quan đến EEZ của VN. Tôi nghĩ VN nên đưa vụ tranh chấp EEZ hiện nay ra UN yêu cầu cơ quan này đứng trung gian giàn xếp theo LOS. Về lâu dài VN cần tiếp tục phương án kiện TQ ở ICJ về chủ quyền HS.
http://www.cefc.com.hk/pccpa.php?aid=1714

Thursday, June 12, 2014

Cách đây mấy tuần phía VN "rón rén" cho một số nhà báo nước ngoài theo tàu CSB ra khu vực tranh chấp.

Cách đây mấy tuần phía VN "rón rén" cho một số nhà báo nước ngoài theo tàu CSB ra khu vực tranh chấp. Sở dĩ tôi cho là "rón rén" vì cả trước và sau vụ đó báo chí trong nước hầu như không đề cập đến có những báo/hãng tin nước ngoài nào đã ra đưa tin và sau đó họ đưa tin gì. Đáng ra trong các cuộc "họp báo quốc tế" phía VN nên mời công khai tất cả các phóng viên ngoại quốc ai có nhu cầu đi thực địa khu vực giàn khoan có thể đăng ký và sẽ được trợ giúp phương tiện. Chẳng việc gì phải giấu diếm phía TQ, thậm chí công khai ngày giờ và tàu chở các phóng viên quốc tế cho phía TQ biết (rồi lái những tàu đó lại gần giàn khoan :-) ). Phía VN cũng có thể gửi thư mời công khai phóng viên báo đài TQ lên các chuyến tàu thực địa này.

Ngược lại VN cũng nên khuyến khích phóng viên ngoại quốc (BBC, AP, Reuters, CNN...) yêu cầu phía TQ cho lên tầu của họ ra thực địa. Bản thân các báo đài VN cũng có thể gửi thư cho phía TQ yêu cầu họ cho phóng viên VN theo tàu TQ ra hiện trường ghi nhận hình ảnh tranh chấp thực tế. Nếu TQ không cho phóng viên theo tàu ra trong khi VN sẵn sàng làm việc này, không khó có thể đoán được dư luận quốc tế, ít nhất là giới báo chí ngoại quốc, sẽ nghĩ gì.

Wednesday, June 11, 2014

Sam Bateman, dù tranh luận không lại với Dương Danh Huy và Phạm Quang Tuấn, vẫn bướng bỉnh khẳng định thế này với...

Sam Bateman, dù tranh luận không lại với Dương Danh Huy và Phạm Quang Tuấn, vẫn bướng bỉnh khẳng định thế này với CNN:

"Most objective, independent, international observers agree that China's case for sovereignty over the Paracels is better than Vietnam's for the very reasons that China has now set out in its submission to the U.N.," 
http://edition.cnn.com/2014/06/11/world/asia/china-vietnam-paracels/index.html?utm_source=feedburner&utm_medium=feed&utm_campaign=Feed:+rss/edition_asia+(RSS:+Asia

Tôi thấy ái ngại cho cổ đông Sacombank khi ông chủ tịch HĐQT Kiều Hữu Dũng (đã từng) phát biểu thế này:

Tôi thấy ái ngại cho cổ đông Sacombank khi ông chủ tịch HĐQT Kiều Hữu Dũng (đã từng) phát biểu thế này:

"... ở các nước thị giá cổ phiếu ngân hàng thông thường cao gấp 3-4 lần mệnh giá."

Hầu hết các nước đã bỏ khái niệm "mệnh giá" cổ phiếu lâu rồi. Ngay cả price/book ratio 3-4 lần cũng không phổ biến trong giới ngân hàng quốc tế.
http://www.thesaigontimes.vn/115824/Vap-nga-vi-%E2%80%9Cthien-nga-den%E2%80%9D.html

Dù không hẳn đồng tình nhưng tôi hiểu đây là một biện pháp NHNN muốn giảm lượng giao dịch bằng tiền mặt trong nền...

Dù không hẳn đồng tình nhưng tôi hiểu đây là một biện pháp NHNN muốn giảm lượng giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế, một mục tiêu đúng.

Tuy nhiên người soạn thảo qui chế này có lẽ đã sai khi đặt trần 0.03% phí nộp/rút tiền mặt ở các NHTM so với mức 0.005% tại NHNN. Lượng tiền mặt giao dịch tại các NHTM chắc chắn lớn hơn nhiều lần lượng giao dịch tại NHNN nên lẽ ra cái trần cho các NHTM phải là 0.005%.

Dẫu sao NHNN nên cân nhắc chính sách này vì hiện tại đối tượng bị ảnh hưởng nhiều nhất là những người có thu nhập thấp. Trong khi số lượng thẻ ATM và POS chưa nhiều thì loại hình "thuế" này có thể không thúc đẩy mà lại hạn chế sự phát triển của những công cụ thanh toán non-cash đó.
http://gafin.vn/20140609083928683p0c34/sap-co-thong-tu-quy-dinh-phi-nop-va-rut-tien-mat.htm

Lại nói về nationalism ở châu Âu.

Lại nói về nationalism ở châu Âu. Cuộc bầu cử nghị viện châu Âu vừa qua được bình luận là một cú shock cho những người muốn có một liên minh châu Âu chặt chẽ hơn (EU federalism). Bài báo dưới đây nhận định nationalism là một lý do giúp cho nhiều đảng cực hữu ở một số nước giành thắng lợi vang dội. Liên minh châu Âu (EU) đang thoái trào, thậm chi sẽ tan rã?

Song song với sự kiện bầu cử đình đám này, Lithuania - quốc gia thứ ba và cuối cùng trong nhóm các nước Baltic thuộc LX cũ - vừa được chấp nhận gia nhập liên minh đồng Euro (EMU) vào năm 2015. EMU từ chỗ đứng trên bờ vực tan rã mấy năm trước đây bây giờ đang phát triển mạnh, giúp gia tăng economic integration của các quốc gia thành viên.

Rõ ràng benefit của việc tham gia vào EMU và EU lớn hơn việc đứng ngoài. Ngay bản thân UK cũng đang phải rất cân nhắc trong việc có rút khỏi EU hay không dù EU sẽ có những regulation làm thiệt hại nặng cho trung tâm tài chính London. Xu hướng economic integration sẽ gián tiếp làm suy yếu nationalism trước khi political integration chính thức giết chết nó.

Tất nhiên châu Âu còn khá xa cho đến khi có một political integration thực thụ và nationalism chưa hề chết. Nhưng tôi thấy nationalism ở châu lục này (ít nhất phần phía Tây) đang thoái trào và mất dần ảnh hưởng. Khi François Mitterrand và Helmut Kohl vận động cho EMU, cái viễn cảnh mà họ nhin vào là một tương lai châu Âu không còn biên giới mà bước đầu tiên đi theo hướng đó là một liên minh kinh tế, tiền tệ. Châu Á và các châu lục khác còn rất xa để có thể mơ đến cái đích đó, nhưng sẽ thật tuyệt vời khi các dân tộc chỉ còn tranh chấp với nhau trên sân bóng hay song-contest thay vì biển đảo.
http://www.economist.com/news/leaders/21603000-europes-leaders-need-cut-power-brussels-many-areas-some-they-need-extend

Từ tối qua tôi không vào được Feedly, hóa ra dịch vụ này đang bị DDOS attack, Evernote cũng vậy.

Từ tối qua tôi không vào được Feedly, hóa ra dịch vụ này đang bị DDOS attack, Evernote cũng vậy.

Nhắc đến Feedly lại nhớ vụ Google ngưng dịch vụ Google Reader năm ngoái. Gần đây có nhiều bằng chứng cho thấy thực ra dịch vụ này bị kill không phải vì lý do kinh tế mà vì Google muốn kill toàn bộ hệ thống RSS. Nếu đây là mục đích thực sự thì có thể nói đến thời điểm này Google đã thất bại vì RSS không chết và Feedly đã popular đến mức hacker hi vọng có thể tống tiền dịch vụ này bằng DDOS.

Dẫu sao tôi mong ai đó phát triển một self-host solution có chức năng tương đương như Feedly và thật đơn giản để một người không chuyên IT như tôi có thể tự install/maintain (chứ không quá phức tạp như Tiny Tiny RSS). Nếu solution đó dựa trên các cloud service như Dropbox hay WordPress thì càng tốt.
http://www.slate.com/blogs/future_tense/2014/06/11/evernote_and_feedly_were_down_because_of_a_ddos_attack.html

Nhật bản thua trận trong Thế chiến thứ Hai và bị quân đội Mỹ chiếm đóng đến năm 1952.

Nhật bản thua trận trong Thế chiến thứ Hai và bị quân đội Mỹ chiếm đóng đến năm 1952. Năm 1947 tướng Douglas MacArthur chỉ đạo hai sĩ quan dưới quyền soạn một bản hiến pháp mới cho Nhật trong đó có Điều 9 qui định Nhật sẽ từ bỏ quyền tuyên chiến với bất kỳ quốc gia nào và chỉ giữ một lực lượng phòng vệ để bảo vệ lãnh thổ khi bị nước khác tấn công trước.

Điều khoản này hạn chế rất nhiều các hoạt động quân sự của Nhật ngay cả với các hoạt động phòng vệ trong nước. Trước tình hình TQ ngày càng hung hăng, có thể hiểu được việc chính phủ Shinzo Abe muốn sửa đổi Điều 9 để có thể chủ động hơn trong các hoạt động quân sự, cả trong lẫn ngoài biên giới nhằm đối phó với TQ.

Vậy nhưng điều ngạc nhiên là một số lớn dân Nhật không muốn sửa điều khoản hiến pháp này. Không phải họ không yêu nước mà vì họ thực sự chống chiến tranh và không muốn nước Nhật trở thành tội đồ như trong các cuộc chiến trước đây, dù thắng hay thua.

Điều này thực sự đáng kể vì Nhật không phải là một dân tộc có truyền thống "dĩ hoà vi quí" như Thuỵ Sĩ hay Thái Lan. Có thể nói Nhật, cũng như nhiều quốc gia Tây Âu hiện nay, đã đạt đến mức độ văn minh mà nationalism không còn nhiều giá trị. Ở đó xã hội được vận hành trong một khuôn khổ liberal democracy và nhà nước không cần sử dụng nationalism để gắn kết các cá nhân cũng như để củng cố legitimacy của mình.

Có điều sống cạnh một kẻ lưu manh thì phải cảnh giác và phòng bị, bài học đế chế La mã sụp đổ trước các bộ tộc barbarian còn đó.
http://www.economist.com/news/asia/21603495-prime-ministers-attempts-reform-both-economy-and-pacifist-constitution-are-entering?zid=306&ah=1b164dbd43b0cb27ba0d4c3b12a5e227

Giới kinh tế gia thường bị mang tiếng là dự báo kém, để lần này xem thử thế nào:

Giới kinh tế gia thường bị mang tiếng là dự báo kém, để lần này xem thử thế nào:

"Brazil will beat Germany to win soccer’s World Cup and also will score the most goals, according to a survey of economists across 52 countries."
http://marginalrevolution.com/marginalrevolution/2014/06/the-economists-speak-once-again.html

Monday, June 9, 2014

Tôi vẫn thắc mắc về số phận những người lính TQ đã bắn hoặc lái xe tăng cán nát những sinh viên biểu tình ở Thiên An...

Tôi vẫn thắc mắc về số phận những người lính TQ đã bắn hoặc lái xe tăng cán nát những sinh viên biểu tình ở Thiên An Môn 25 năm về trước. Họ nghĩ gì khi đó và sau này?

The Economist tuần trước review một quyển sách của Louisa Lim về sự kiện Thiên An Môn có nhắc đến một số người lính. Có lẽ nhiều người trong số họ đã cảm thấy tội lỗi khi phải bắn vào đồng bào mình. Hàng trăm binh lính đã chịu trận để người dân đánh đập dù họ có vũ khí đến tận răng, có lẽ vì họ ân hận đã bắn vào những người biểu tình trước đó. Có đơn vị quân đội tham gia đàn áp đã phải giao nộp hết vũ khí vì lãnh đạo TQ sợ họ nổi loạn. Tôi tin rằng nhiều người trong số đó sẽ bị dằn vặt cho đến cuối đời.

Chỉ không biết những kẻ ra lệnh nổ súng có bao giờ cảm thấy ân hận vì quyết định của mình không. Nhưng bất luận họ có ăn năm sám hối hay không tội ác của họ sẽ không bao giờ được xóa khỏi lịch sử.
http://www.economist.com/news/books-and-arts/21602980-twenty-five-years-after-bloodshed-beijing-new-details-keep-emerging-ageing-rebels

Friday, June 6, 2014

Nhiều người biết định lý Fermat nhưng không ai biết bản thân Fermat đã chứng minh được nó chưa.

Nhiều người biết định lý Fermat nhưng không ai biết bản thân Fermat đã chứng minh được nó chưa. Phải mất hơn 300 năm sau Andrew Wiles mới chứng minh được Fermat's last theorem sử dụng nhiều công cụ toán học hiện đại.

Nhưng chắc ít người biết một trường hợp tương tự cách đây hơn 100 năm về Srinivasa Ramanujan, một chàng trai trẻ Ấn độ, không chỉ đưa ra một mà hàng trăm "định lý" không có chứng minh như vậy (chính xác là "number theory identity"). Điều đáng nói là Ramanujan xuất thân nghèo khó và hầu như không được học toán bài bản. Bản thân Ramanujan nói những identity đó do một vị thần Ấn độ (Lakshmi) nói cho ông trong những giấc mơ.

Nhiều người đã không tin cho rằng Ramanujan là một kẻ lừa đảo và những identity đó nhăng cuội. Nhưng nhiều nhà toán học đã tin và bỏ hàng chục năm nghiên cứu và tìm cách chứng minh các "định lý" của Ramanujan. Cuối cùng sau đúng 100 năm ba nhà toán học Mỹ và Úc đã tìm ra lời giải sử dụng những công cụ toán học hiện đại mà Andrew Wiles đã dùng để chứng minh định lý Fermat trước đó.

Tiếc là Ramanujan mất quá trẻ (32 tuổi) vì bị bệnh nhiễm sán gan. Câu chuyện dưới đây khi Ramanujan nằm trên giường bệnh cho thấy những identity của ông kỳ diệu không kém gì định lý Fermat cuối cùng. Bạn nào thích toán học nên đọc cả bài trong link bên dưới.

"While Ramanujan was lying in a hospital bed in Putney, England, in 1917, Hardy came to see him. “My taxi had a rather dull number,” Hardy said, just making conversation, “it was 1729.”

“No, Hardy! No, Hardy!” Ramanujan jumped up in bed and exclaimed: “It is a very interesting number! It’s the smallest number expressible as the sum of two cubes in two different ways.” (This is because 1729 = 10^3 + 9^3 = 12^3 + 1^3.) Ramanujan just naturally knew such things, leaving both proofs and details to others."
http://blogs.discovermagazine.com/crux/2014/06/06/century-old-math-mystery-solved/#.U5IuUJTNUx0

Are you smarter than a ... first grader?


Are you smarter than a ... first grader?

Dưới đây là một câu hỏi trong đề thi toán vào lớp 1 ở Hong Kong. Câu hỏi là chiếc xe trong hình vẽ đậu trong ô đậu xe số mấy? Nếu bạn không giải được (giống tôi) thì click vào link này xem lời giải nhé :-)

http://www.businessinsider.com.au/math-question-from-hong-kong-elementary-school-test-2014-6

Wednesday, June 4, 2014

Chú Trung, từ cái ý tưởng dưới đây chú thử nghĩ xem có thể làm một cái app tương tự nhưng phục vụ cho nhu cầu dịch...

Chú Trung, từ cái ý tưởng dưới đây chú thử nghĩ xem có thể làm một cái app tương tự nhưng phục vụ cho nhu cầu dịch thuật không? Đại khái là nó cũng là một cái app chatting như thế này nhưng cho 2 đối tượng. Users là những người cần phiên dịch, vd người nước ngoài ở đi du lịch ở VN muốn trao đổi với ai đó không biết ngoại ngữ. Translator là những người biết 2 thứ tiếng có thể tình nguyện làm vai trò phiên dịch hoặc nếu phiên dịch cần chất lượng thì có thể charge tiền.

Khi user cần phiên dịch, vd ra chợ mua cái gì đó mà người bán hàng không biết ngoại ngữ thì bật cái app này lên và chọn cặp ngôn ngữ cần phiên dịch, chọn translator đang online, bật speaker lên để người đó dịch hộ cuộc nói chuyện.

Anh nghĩ cái app này sẽ rất popular cho dân tourist, chú có thể cho free và để quảng cáo hoặc chia ra version free chỉ cho phép translate giới hạn thời gian và cặp ngôn ngữ, còn version pro không bị giới hạn thì phải mua. Về lâu dài nếu đội ngũ translator phát triển có thể chấm điểm và tạo ra payment system giữa user và translator cho những cuộc phiên dịch phức tạp.

Chú thử xem cái này có làm được không?

Originally shared by Giang Le

Bạn nào muốn thực tập nói tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào khác với người bản xứ thử sử dụng cái app này xem sao. Nhân thể nhớ tuyên truyền luôn vụ giàn khoan :-)
http://www.lifehacker.com.au/2014/06/wespeke-lets-you-practise-languages-by-speaking-with-another-person

Ấn độ mới có chính phủ mới do thủ tướng Nerandra Modi đảng BJP đứng đầu.

Ấn độ mới có chính phủ mới do thủ tướng Nerandra Modi đảng BJP đứng đầu. Báo chí VN có vẻ bị vụ HD-981 và bầu Kiên lấn át nên không quan tâm đến tin này lắm trong khi các báo lớn trên thế giới đều có (nhiều) bài về Modi. Dù sao Ấn độ cũng là quốc gia đông dân thứ hai trên thế giới (dự báo sẽ vượt TQ) và chắc chắn sẽ là một superpower trong tương lai, sẽ có ảnh hưởng trên cả thế giới lẫn khu vực.

Để thấy tầm quan trọng của việc Modi thắng cử xin trích dẫn nhận định của tờ The Economist:

"Not since Indira Gandhi was assassinated in 1984 has India had such a powerful personality in charge"



"...some are comparing him to Singapore’s Lee Kuan Yew."

Không chỉ TQ vồ vập mà cả Nhật và phương Tây đều muốn có quan hệ tốt với chính phủ mới của vị thủ tướng này, đặc biệt là Mỹ đã tìm cách cải thiện quan hệ với Modi từ thời Hilary Clinton còn làm Secretary of States vì trước đó đã từng từ chối visa cho Modi vào Mỹ. Tiếc là VN chưa có động thái ngoại giao gì, có thể vì từ trước tới nay vẫn ủng hộ đảng Quốc Đại của dòng họ Gandhi vừa bị Modi/BJP đánh bại.

Bài báo của VNE dưới dây trích dẫn Global Times nói Modi là người cánh tả là không chính xác. BJP và Modi vẫn được cho là nationalist và conservative, có tư tưởng khá gần với các đảng cánh hữu phương Tây. Ví dụ Modi rất pro business và mới đây tuyên bố sẽ privatize các SOE của Ấn độ làm ăn không hiệu quả. Mặc dù khi còn làm thủ hiến bang Gujarat Modi sang TQ (và Nhật) nhiều lần để vận động đầu tư, ông này có quan điểm khá cứng rắn về vấn đề biên giới với TQ.

Giống như những nationalist khác, Modi có lẽ sẽ tăng đầu tư cho quân đội và sẽ không ngần ngại hợp tác quân sự với các nước khác vì lý do chiến lược (trong khi đảng Quốc Đại trước kia là một lãnh tụ của phong trào không liên kết quốc tế mà VN là một thành viên).

Trong Shangri-La Dialog vừa qua một đại diện của Ấn độ đã phê phán hành động gây hấn của TQ ở Biển Đông, trong khi đó nhiều người so sánh việc Ấn độ đảm bảo tự do hàng hải ở Ấn độ dương như là một tấm gương tốt cho TQ. Bởi vậy có hi vọng chính phủ Modi sẽ vẫn tiếp tục có quan hệ tốt với VN và ủng hộ VN trong các vấn đề tranh chấp ở biển Đông.

Dù sao đi nữa tôi cũng rất mong Ấn độ phát triển để trở thành một đối trọng với TQ trong khu vực. Dân tộc này có truyền thống dân chủ và hòa bình hơn ông bạn vàng phía bắc của VN.
http://vneconomy.vn/20140602122737505P0C99/vi-sao-trung-quoc-vo-vap-tan-thu-tuong-an-do.htm

Bạn nào muốn thực tập nói tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào khác với người bản xứ thử sử dụng cái app này xem sao.

Bạn nào muốn thực tập nói tiếng Anh hay một ngoại ngữ nào khác với người bản xứ thử sử dụng cái app này xem sao. Nhân thể nhớ tuyên truyền luôn vụ giàn khoan :-)
http://www.lifehacker.com.au/2014/06/wespeke-lets-you-practise-languages-by-speaking-with-another-person

Tuesday, June 3, 2014

Patrick Chovanec, một chuyên gia tài chính đang sống và làm việc ở Bắc Kinh (tôi đã nhắc đến vài lần trên blog),...

Patrick Chovanec, một chuyên gia tài chính đang sống và làm việc ở Bắc Kinh (tôi đã nhắc đến vài lần trên blog), đang live tweet từng phút lại các sự kiện diễn ra tại Thiên An Môn đêm 3 sáng 4/6/1989 cứ như là Twister đã tồn tại vào thời điểm đó. Cám ơn Patrick và xin ngả mũ trước những người sinh viên TQ dũng cảm.
https://twitter.com/prchovanec

Bài này của Bloomberg cho rằng vụ BD&VA làm dollar bond của VN chỉ tăng giá 0.5% trong tháng 5 so với 2.2% của khu...

Bài này của Bloomberg cho rằng vụ BD&VA làm dollar bond của VN chỉ tăng giá 0.5% trong tháng 5 so với 2.2% của khu vực (tính theo một index của HSBC). Đây là một kết luận vội vã của một phóng viên còn khá non tay hoặc cố tình sensationalize để "câu view".

Giá bond được cấu thành bởi 2 yếu tố chính: interest rate expectation và default risk. Giá bond giảm (hoặc tăng chậm) có thể vì 2 lý do: investor cho rằng interest rate sẽ tăng và/hoặc default risk tăng. Vài năm lại đây có một cách xác định default risk trực tiếp khá dễ là nhìn vào CDS của sovereign bond trên thị trường quốc tế (CDS có thể tạm hiểu là hợp đồng bảo hiểm cho default risk, bởi vậy nếu giá CDS tăng có nghĩa investor cho rằng default risk tăng).

Nhìn vào CDS index cho VN do Reuters tính toán cho các thời hạn từ 6 tháng đến 5 năm trong tháng 5 vừa rồi có thể thấy có 2 thời điểm chỉ số này tăng đáng kể là đầu tháng 6 và thứ Hai 12/5 (ngay sau sự kiện BD&VA). Tuy nhiên sau đó CDS của VN liên tục giảm (trừ ngày 20/5). Đến cuối tháng 5 tất cả CDS index của VN đều giảm xuống thấp hơn mức cuối tháng 4, chứng tỏ investor quốc tế (ít nhất những người mua CDS) cho rằng default risk của VN không tăng vì sự kiện giàn khoan HD-981.

Như vậy nhiều khả năng bond của VN tăng chậm trong tháng 5 vì lý do interest rate chứ không phải vì default risk như tác giả bài báo speculate. Một điểm nữa cần lưu ý là HSBC Index mà tác giả so sánh có thể có trọng số rất lớn cho TQ mà mặt bằng lãi suất nước này đang trên đà đi xuống nên bond sẽ tăng giá rất mạnh, bởi vậy so sánh bond của VN với HSBC Index có thể không phù hợp.
http://www.businessweek.com/news/2014-06-02/anti-china-riots-spoil-vietnam-dollar-bond-rally

Monday, June 2, 2014

Sau vụ bạo loạn ở BD và VA tôi rất lo ngại PMI tháng 5 sẽ sụt giảm nghiêm trọng và nền kinh tế VN sẽ mất đà phục hồi.

Sau vụ bạo loạn ở BD và VA tôi rất lo ngại PMI tháng 5 sẽ sụt giảm nghiêm trọng và nền kinh tế VN sẽ mất đà phục hồi. Mặc dù số lượng doanh nghiệp bị ảnh hưởng trực tiếp không nhiều nhưng sự bất ổn sẽ ảnh hưởng vào tâm lý chung của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nước ngoài.

Hôm qua HSBC/Markit công bố PMI tháng 5 giảm xuống 52.5 (tháng 4 là 53.1). Lưu ý chỉ số này trên 50 nghĩa là manufacturing sector vẫn tăng trưởng và mức 52.5 khá cao so với mặt bằng PMI trong suốt 3 năm qua. Có thể nói điều tôi lo ngại không xảy ra, hay ít nhất chưa xảy ra trong tháng 5.

Hầu hết các subindex cấu thành PMI đều khá tốt hoặc sụt giảm không đáng kể, ngoại trừ Input Price (giá nguyên liệu đầu vào) và Suppliers'  Delivery Times (thời gian đợi giao nguyên liệu đầu vào) xấu đi thấy rõ. Theo các doanh nghiệp được survey lý do chính của vấn đề này là sự thay đổi qui định liên quan đến vận tải hàng hóa, có lẽ ý họ là qui định về trọng tải xe tải tối đa được lưu thông. Nếu đúng như vậy hóa ra tác hại của HD-981 không bằng một qui định mới của bộ GTVT!

Tiếp tục hồi hộp đợi PMI tháng 6.

Sunday, June 1, 2014

Tạm xong về vấn đề hình thức, bây giờ chuyển qua nội dung bài phát biểu của tướng Thanh.

Tạm xong về vấn đề hình thức, bây giờ chuyển qua nội dung bài phát biểu của tướng Thanh. Trước hết đánh giá về "văn" với tôi bài này có chất lượng trung bình kém. Chưa kể quá nhiều từ ngữ và style kiểu "tuyên giáo" tôi đã phàn nàn trong entry trước, ý tưởng toàn bài không mạch lạc, nhiều ý bị lặp đi lặp lại, các điểm nhấn không nổi bật (có thể tác giả cố tình). Đúng như Carl Thayer nhận xét lãnh đạo VN thường chỉ nói chung chung chứ không đưa ra điều gì cụ thể.

Sở dĩ tôi không xếp hẳn bài này vào diện kém vì 2 bài còn lại trong session này (chuyên đề về Managing Strategic Tensions) cũng nhạt nhẽo không kém, có chăng bộ trưởng QP Úc và Indonesia viết trôi chảy hơn một tẹo. Một lý do nữa (hơi AQ một tý) là không rõ có phải vì bài phát biểu "dĩ hoà vi quí" như vậy nên tướng Thanh không bị quay trong phần Q&A hay không, chứ không chẳng biết ông sẽ xoay sở thế nào :-)

Nội dung chính của bài này có thể tóm tắt như sau. Năm ngoái thủ tướng tôi nói "lòng tin chiến lược" nhưng chắc chẳng ai nghe nên thế giới và khu vực ngày càng bất ổn. Năm nay tôi sẽ nói về "quản lý căng thẳng chiến lược", mà nói thực tôi cũng chẳng hiểu nó là cái gì (giống hai đồng nghiệp Úc và Indonesia vừa phát biểu). Thôi thì tôi cứ nhắc lại mấy câu "thần chú" ai ai cũng biết: giải quyết tranh chấp bằng thương lượng, hoà bình, các bên phải kiềm chế, không sử dụng vũ lực, đề cao vai trò các diễn đàn/tổ chức quốc tế... Ví dụ như VN chúng tôi đây dù TQ ngang ngược đem giàn khoan vào EEZ của tôi không đời nào tôi dùng vòi rồng hay húc tàu (như chúng nó đã/đang làm - đoạn này ngầm hiểu không phải tôi nói đâu nhé!). Nhân tiện đây tôi nhắn bạn TQ kéo cái giàn khoan ra đi rồi chúng ta đàm phán, tôi hứa sẽ chỉ song phương thôi vì đây là vấn đề giữa 2 chúng ta (bạn lưu ý là tôi không có ý định kiện cáo gì đâu nhé). Cuối cùng, xin gửi lời chào thân ái và quyết thắng tới toàn thể hội nghị!

Điểm "văn" trung bình kém, còn điểm "impact" thì thế nào? Để đánh giá mặt này cần phải trả lời câu hỏi bài diễn văn này nhằm đánh tiếng điều gì và cho ai. Cá nhân tôi cho rằng đích đến của ông Thanh là TQ (dĩ nhiên rồi), Mỹ+Nhật+... (dĩ nhiên), nội bộ VN (nhân dân và các phe cánh khác phe (của) ông Thanh), có thể với Nga nữa. Tại sao lại với Nga? Đọc bài của bộ trưởng QP Nga sẽ thấy Nga lo ngại Mỹ xoay trục sang Asia-Pacific và tìm cách thành lập liên minh quân sự. Toàn bài của tướng Thanh không hề nhắc đến liên mình, liên kết gì cả, thậm chí đến tập trận chung (là điều rất nhiều speaker khác nhắc đến) cũng không dám nói (mạnh miệng nhất chỉ là vụ "giao hữu bóng chuyền" với lính Phi luật tân ở Trường Sa). Thông điệp cho Anatoly Antonov là cứ giao nốt mấy cái Kilo và Su-30 đi, tôi không phản thùng theo Mỹ đâu, tôi cũng ghét các thể loại "color" như bạn vậy.

Tất nhiên đây cũng là thông điệp cho TQ. Thông điệp này càng quan trọng sau bài mở màn đầy kịch tính của Shinzo Abe và nhất là bài cực diều hâu của Chuck Hagel. Nhiều người chỉ đánh giá bài của Hagel ở điểm xỉ vả thẳng thừng TQ mà không để ý ông này doạ TQ bằng cách công bố một loạt hợp đồng bán vũ khí mới cho các quốc gia bao quanh nước này. Hagel nói thẳng ý tưởng có thể lập liên minh quân sự (chống Tàu - cái này là tôi suy diễn nhé) còn Abe bảo liên minh đa phương mà khó thì làm liên minh tay ba Mỹ-Nhật và một nước thứ ba nào đó, mà VN rõ là một candidate rất hợp lý. Abe và sau đó một bạn Nhật khác tung hứng ý tưởng sẽ sửa hiến pháp để chủ động hơn trong các hoạt động quân sự trong và ngoài nước, trong các trường hợp "emergency". Cuối bài phát biểu Chuck Hagel nói kháy TQ bằng lời của George Marshall: tao với mày đọ xem ai có nhiều bạn hơn nào? Không, tất nhiên VN vẫn là bạn với TQ, thông điệp này rất rõ ràng.

Vậy thì thông điệp với Mỹ và đồng minh thế nào? Một con số không tròn trĩnh. Bạn không tin á? Đến một chữ "Mỹ" hay "Nhật" còn không dám đưa vào bài phát biểu chứ đừng nói gì đến liên minh hay hợp tác. Thậm chí một version nhẹ nhàng hơn là TPP cũng giấu tịt. VN theo như tướng Thanh (và phe của ông ấy) sẽ không chơi với Mỹ, đấy là thông điệp trong bài phát biểu này bất chấp trước đó Chuck Hagel đã ra sức làm thân nhắc đến kỷ niệm năm 67. Tất nhiên cả Hagel lẫn Abe đều muốn nghe một tuyên bố cứng rắn từ phía VN công khai tại hội nghị, đó là thành công chính trị mà họ có thể đem về nước để lấy tiền và lấy phiếu. Nhưng hi vọng rằng cả hai bạn ấy đều hiểu phẩm chất của người CS, họ không làm những gì họ nói (trích lời TT đấy nhé). Cũng có thể tướng Thanh đang chê 18 triệu ít quá, số đó mới chỉ là xoay nắm đấm cửa thôi chứ trục trặc gì. Bởi vậy nên bạn đừng quá thất vọng.

Cuối cùng là thông điệp gì tướng Thanh muốn gửi ngược về cho đồng bào của mình? Đọc bản tiếng Việt "nhũn như con chi chi" trái với những lời lẽ cứng rắn của thủ tướng Dũng mấy hôm trước bạn có đoán được không? Tôi nhớ một dạo dư luận và báo chí ồn ào về vụ quân đội có nên "phi chính trị" hay không, hay bây giờ chuyển sang "phi chính phủ"? Cá nhân tôi cảm thấy lo lắng rằng trong lúc dầu sôi lửa bỏng như thế này nội bộ VN không đoàn kết, một lòng tìm giải pháp đối phó với một đối thủ rất thâm độc. Hi vọng rằng những cảm nhận của tôi sai, các bác ấy đang đánh vu hồi tứ tung. VN đang đứng trước một mối đe doạ cực kỳ nguy hiểm nhưng đồng thời có một cơ hội lịch sử thoát khỏi quá khứ tối tăm. Tiếc là khả năng những dân đen như tôi và bạn chộp lấy cơ hội này quá nhỏ, vận mệnh đất nước một lần nữa lại nằm trong tay một vài người như tướng Thanh. Ở thời điểm này, tôi chấm cho (bài phát biểu của) ông điểm kém. Bạn sẽ chấm thế nào?

Bây giờ nói về 2 cái paragraph "quan trọng" làm không ít người thất vọng về bài phát biểu này. Đoạn thứ nhất:

Bây giờ nói về 2 cái paragraph "quan trọng" làm không ít người thất vọng về bài phát biểu này. Đoạn thứ nhất:

"Quan hệ giữa Việt Nam và nước bạn láng giềng Trung Quốc về tổng thể trên các mặt đang phát triển tốt đẹp, chỉ còn tồn tại vấn đề tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông và đôi khi cũng có những va chạm gây căng thẳng như sự việc..."

bản dịch tiếng Anh:

"Relations between Viet Nam and the friendly neighbouring country of China have seen overall strong growth. There remains an outstanding issue of disputes over sovereignty in the East Sea and frictions from time to time such as the incident..." 

Bỏ qua lỗi dịch thuật ("the relationship" chứ không phải "relations"), version tiếng Anh có nghĩa hơi khác so với tiếng Việt, không "nồng ấm" như ý trong tiếng Việt. "An overall strong growth" không hẳn là "đang phát triển tốt đẹp". Cụm từ "the friendly neighbouring country of China" đọc lên rất lủng củng và bản chất khác với "nước bạn láng giềng Trung Quốc". Dịch chính xác (nghĩa) câu tiếng Việt theo tôi phải là:

"The overall relationship between Vietnam and our neighbouring friend China is progressing well in all aspects..."

rõ ràng "nồng ấm" hơn hẳn bản dịch chính thức trên IISS. Lưu ý "friengly neighbour" khác với "neighbouring friend". Câu tiếng Việt khẳng định TQ là "bạn" của VN, câu tiếng Anh chỉ nói TQ là một hàng xóm tốt, dù không khác nhiều nhưng đáng lưu tâm nếu đây là chủ ý. "Đang phát triển tốt đẹp" cũng không hẳn là "strong growth", cụm từ tiếng Anh trung tính hơn hẳn cụm từ tiếng Việt.

Version tiếng Anh sau đó ngắt ra làm 2 câu trong khi bài tiếng Việt thêm vào một mệnh đề phụ với conjunction "chỉ còn" rất nhẹ nhàng. Khác biệt này rất khó thấy nhưng nếu chỉ đọc bản tiếng Anh (bỏ qua lỗi dịch thuật) thì người đọc có cảm giác quan hệ Việt-Trung phát triển đến ngày hôm nay và xuất hiện dispute về biển đảo làm gián đoạn quan hệ đó. Trong khi version tiếng Việt gợi ý rằng quan hệ đang phát triển tốt đẹp chỉ còn một vấn đề (nhỏ) khả năng sẽ được giải quyết êm thấm.

Sang paragraph thứ hai, bản tiếng Việt:

"Chúng tôi đề nghị Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa của Việt Nam và cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hòa bình ổn định và quan hệ hữu nghị hai nước."

bản tiếng Anh:

"We demand that China withdraw its drilling rig out of the Vietnamese continental shelf and exclusive economic zone and negotiate with us to maintain peace, stability and friendly relations between the two countries."

Chữ "đề nghị" ở đây dịch thành "demand" là sai (có chủ ý hay không tôi không biết). "We demand" là một yêu cầu ngoại giao cứng rắn, phù hợp với thông lệ quốc tế có nghĩa là "Chúng tôi yêu cầu...". Nếu dịch đúng (nghĩa) "Chúng tôi đề nghị..." sẽ phải là "We ask/insist...", yếu hơn rất nhiều.

Phần tiếp theo "...và cùng Việt Nam đàm phán để giữ được hoà bình...." dịch đúng thành "...and negotiate with us to maintain peace...". Tuy nhiên cả câu tiếng Việt lẫn câu tiếng Anh đều "đánh lừa" người đọc hiểu là VN yêu cầu TQ rút giàn khoan ra và đàm phán về vấn đề chủ quyền vùng biển đó. Cả báo tiếng Việt lẫn một vài báo tiếng Anh có vẻ hiểu như vậy mặc dù cái vế "đàm phán" này chỉ có nghĩa đảm bảo hoà bình, ổn định chứ không hàm ý đàm phán về chủ quyền. Sự mập mờ này là chủ ý hay chỉ là lỗi soạn thảo tôi không biết, nhưng điều này làm lập trường của VN yếu đi.

Dẫu sau trong 2 paragraph này tôi thấy bản tiếng Việt "ôn hoà" hơn hẳn bản tiếng Anh dù theo tôi bản tiếng Anh (lẫn bản tiếng Việt) vẫn chưa đủ cứng rắn và nội dung có nhiều điều cần bàn. Nếu hai version này được chủ ý viết khác nhau (dù rất subtle), một câu hỏi đặt ra là tại sao version tiếng Việt lại nhẹ nhàng hơn? Phải ngược lại mới hợp lý chứ (vì cần xoa dịu dư luận trong nước)?

Hôm trước anh Phu Nguyen Van có nhận xét cụm từ "hữu nghị viển vông" của TT Dũng trả lời phỏng vấn Reuters được dịch thành "elusive friendship" đã làm version tiếng Anh nhẹ nhàng hơn version tiếng Việt. Vậy tại sao tướng Thanh lại làm ngược lại?
http://www.thanhnien.com.vn/pages/20140531/quan-ly-nhung-cang-thang-chien-luoc.aspx

Tôi đang so sánh bài phát biểu của tướng Thanh bản tiếng Anh (trên website của IISS - link bên dưới) với bản tiếng...

Tôi đang so sánh bài phát biểu của tướng Thanh bản tiếng Anh (trên website của IISS - link bên dưới) với bản tiếng Việt trên website báo Thanh Niên. Tôi sẽ bàn về nội dung của bài phát biểu này sau, trước hết là nhận xét về 2 version của bài phát biểu.

Nhìn chung tôi cho rằng bản tiếng Anh là bài dịch từ nguyên gốc tiếng Việt vì một số câu chữ đặc thù của các bài phát biểu ở VN được đưa nguyên sang bản tiếng Anh. Tuy nhiên cũng lạ là có một số câu dường như bản tiếng Việt được dịch ngược lại từ bản tiếng Anh (vì câu tiếng Anh "chuẩn" hơn câu tiếng Việt).

Bản dịch tiếng Anh có câu cú, từ vụng không được trau chuốt, không chuẩn, và vẫn còn lỗi ngữ pháp. Một số chỗ có sai lệch về ý tứ giữa 2 version. Đặc biệt 2 paragraph rất quan trọng mà dư luận nhắc đến nhiều 2 hôm nay có sự khác biệt, dù không quá rõ nhưng đáng đặt câu hỏi đó là cố ý hay do người dịch không dịch tốt (tôi sẽ phân tích thêm về vấn đề này sau).

Bài phát biểu có nhiều ngôn từ rất "tuyên giáo" và "vênh" với văn hoá/chính trị quốc tế. Ví dụ đoạn nói về "lãnh đạo Đảng" hay ngụ ý về việc phải định hướng phát ngôn báo chí. Bài viết ba lần nhắc đến chữ "cấp cao" cũng là đặc thù của VN, hay những cụm tính từ rất đao to búa lớn như "nhất quán chủ trương kiên trì giải quyết" cũng vậy (chắc làm người dịch toát mồ hôi).

Việc sử dụng từ East Sea trong bản tiếng Anh mà không mở ngoặc là South China Sea là một cố chấp, nó làm giảm giá trị của một paragraph khi nói về tranh chấp biển vì nhiều người nước ngoài không biết East Sea ở đâu (trong khi Song tu Dong, Song tu Tay vẫn có mở ngoặc chú thích tên tiếng Anh).

Dịch chữ "quân đội" thành "the army" có thể gây thắc mắc cho các nhà bình luận/nghiên cứu Anh/Mỹ. Ở những quốc gia Anglo-Saxon "armed forces/defence force" được cấu thành bởi "the army", "the airforce", và "the navy". Trong đó "the army" chỉ là lục quân, hầu như không liên quan đến tranh chấp trên biển.

Câu "It is our clear awareness that struggling to protect territorial sovereignty is sacred" dịch quá máy móc. Chữ "struggling" làm thay đổi ý nghĩa của câu gốc tiếng Việt, chắc các độc giả nước ngoài sẽ gãi đầu gãi tai vì chẳng hiểu tại sao bảo vệ chủ quyền lại phải struggle.
https://www.iiss.org/en/events/shangri%20la%20dialogue/archive/2014-c20c/plenary-3-bce0/phung-dcf8

Bitcoin II

http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2018/01/bitcoin-ii.html